Giới Thiệu Sách Mới
Văn Nghệ Biển Khơi trân trọng giới thiệu:
CUỐN LÊN BỨC MÀNH
• Hồi Ức • Tản Mạn • Thơ
Phạm Quốc Bảo

Hình bìa:
Cây Hoa Đào trong vườn, tác giả ghi hình
Thiết kế bìa và Dàn trang:
Lê Giang Trần
Phụ trách in ấn - xuất bản:
SỐNG Publishing
Ấn bản in lần thứ Nhất tại Nam California - 2025
ISBN # 979-8-3492-2695-3
Copyright@ by Phạm Quốc Bảo
Đặt mua sách tại Amazon, ấn phí 20 USD:
https://www.amzn.com/B0F2KSC629/
***
Phạm Quốc Bảo qua nét vẽ Họa sĩ Võ Đình, 1985
Phạm Quốc Bảo
NGỎ
Bức mành được đề cập đến ở đây thường thấy được treo từ mái tranh (hay ngói) thả xuống có công dụng nhằm để che chắn ngoài hiên nhà thuộc miền Bắc Việt Nam, rất phổ biến vào thời kỳ nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước.
Bức mành này cụ thể được cấu tạo từ những thanh tre (hoặc nứa) già chẻ ra - ngâm xuống bùn ngoài ao, rồi sau khi vớt lên phơi khô ráo dùng dây lạt cột chặt kết lại thành tấm lớn, để cuốn cao lên chạm mái mà cũng có thể thả xuống sát thềm, che mưa - che nắng - ngăn gió, và đồng thời cũng che khuất tầm mắt những ai đi qua ngoài đường tò mò muốn nhìn vào.
Bức mành đây cũng bao gồm ý nghĩa tượng trưng cho ngăn cách, chỉ sự giới hạn hiểu biết, quan niệm một chiều - thói quen tâm trí của một cá nhân độc đoán, luôn luôn cho rằng chỉ mình nghĩ và làm mới duy nhất đúng, mà chẳng hề chịu học hỏi và thường xuyên ứng dụng những hiểu biết vào nếp sống hằng ngày để điều chỉnh sao cho phù hợp hài hòa với qui luật đổi thay thường xuyên (biến dịch) của thời đại, của xã hội và của dòng diễn tiến lịch sử sống còn trong vũ trụ - vạn vật, trong đấy có loài người.
Nói chung, bức mành ở đây còn bao gồm cả trạng thái sống ù lỳ - động lực trì níu của những ai yếu đuối, trốn tránh sự thực, chỉ muốn cuộn tròn mình trong cái vỏ kén mà không biết rằng cuộc đời vốn biến chuyển đổi thay là lẽ thường hằng.
Tập truyện này mong mỏi trình bày mấy ý tưởng nêu trên bằng những trường hợp cá nhân tiêu biểu của đời sống, trong quá khứ - hiện tại lẫn tương lại, qua hình thức văn chương hồi ức - tạp ghi - tùy bút - truyện ngắn và thơ.
Trân trọng.
Phạm Quốc Bảo
oOo
Tô Đăng Khoa
BẠT:
CUỐN LÊN BỨC MÀNH QUÁ KHỨ:
Hồi Ký, Ngôn Ngữ và “Cầu Vượt”
Qua Những Giao Lộ Lịch Sử
Có những câu chuyện không dừng lại ở một con người hay một thời đại, mà kéo dài như một dòng chảy không ngừng của ký ức, nối quá khứ với hiện tại theo cách mà người kể chuyện đôi khi cũng không ngờ tới. Cuốn Lên Bức Mành của Phạm Quốc Bảo trên bề mặt là một hồi ức, một hồi ký về ông ngoại mình - cụ Hàn Giảng - nhưng cũng có thể là một tấm gương phản chiếu tâm thế của những người trí thức Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa và cả những thế hệ sau này.
Cụ Hàn Giảng là một con người đi giữa hai thế giới, hai dòng chảy tư tưởng. Ông không hoàn toàn thuộc về chế độ thuộc địa, cũng không thể là một nhà cách mạng theo nghĩa truyền thống. Ông làm việc cho chính quyền Pháp, nhưng chưa từng xa rời cội nguồn. Khi trở về quê hương sau bao năm, ông đối diện với một thực tế khó tránh khỏi: ánh nhìn nghi kỵ từ những người đồng hương, những câu hỏi không dễ trả lời về lòng trung thành và bản sắc.
“- Như vậy nên quan ngài mới làm việc cho chính quyền người Pháp.
- Có phải ý cụ Tiên chỉ muốn phát biểu là tôi đã làm tôi tớ cho bọn giặc Pháp?”
(Cuốn Lên Bức Mành)
Câu hỏi ấy, được đặt ra cách đây gần một thế kỷ, vẫn có thể vang vọng trong những cuộc đối thoại của ngày hôm nay. Trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa, khi ranh giới giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế, giữa hội nhập và đánh mất bản sắc trở nên mong manh hơn bao giờ hết, con người vẫn tiếp tục phải đối diện với câu hỏi: chúng ta thuộc về đâu, và ta có thể giữ vững căn tính của mình như thế nào trong một thế giới luôn thay đổi?
Câu chuyện của cụ Hàn Giảng không chỉ nói về một cá nhân mà còn mở ra một chủ đề rộng lớn hơn về vai trò của trí thức trong xã hội. Họ là những người đứng giữa hai luồng tư tưởng, thường xuyên phải lựa chọn giữa những con đường không hoàn toàn đúng cũng không hoàn toàn sai. Trong quá khứ, tầng lớp trí thức Việt Nam từng bị đặt vào thế phải chọn lựa giữa hợp tác với chính quyền thực dân hay đứng về phía phong trào yêu nước. Ngày nay, sự lựa chọn ấy có thể không còn mang tính sinh tử như xưa, nhưng áp lực của nó vẫn còn đó - trong cách mỗi người đối diện với truyền thống, với những giá trị đã được định sẵn, với những thay đổi mang tính tất yếu của thời đại.
Ngôn ngữ trong Cuốn Lên Bức Mành không chỉ dùng để thuật lại mà còn để khám phá những lớp nghĩa ẩn giấu. Có những sự thật không được nói ra trực tiếp, mà chỉ hiện lên qua cách nhân vật giao tiếp, qua cách họ lựa chọn từ ngữ để đối thoại. Khi cụ Hàn Giảng trả lời cụ Tiên chỉ về việc làm của mình:
“Tôi tự xác nhận là đã và sẵn lòng cộng tác với chính quyền cai trị của Pháp thuộc địa. Tuy nhiên, mặt khác, phương cách phục vụ của tôi suốt đời không giành riêng cho giới người Pháp ở nước ta mà còn mong muốn và cũng đã phục vụ được bất cứ ai.”
(Cuốn Lên Bức Mành)
Câu nói vừa có thể được hiểu như một lời khẳng định về sự hợp tác với chính quyền thực dân, nhưng đồng thời cũng là một cách tái định nghĩa hành động của bản thân: không phải phục vụ cho một thể chế, mà là phục vụ con người. Ngôn ngữ ở đây là để xác lập danh tính, để kiểm soát câu chuyện của chính mình, để chống lại những diễn giải mang tính quy chụp.
Có một sự kết nối mang tính xuyên thời gian trong cách con người sử dụng ngôn ngữ để định nghĩa bản thân trước xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang chứng kiến những thay đổi nhanh chóng về kinh tế, chính trị, và văn hóa, những người trẻ cũng đang phải đối diện với câu hỏi: liệu mình có đang đánh mất gốc rễ của chính mình khi hòa nhập vào một thế giới rộng lớn hơn? Liệu có thể vừa là công dân toàn cầu, vừa giữ được tinh thần dân tộc?
Hồi Ức của Phạm Quốc Bảo không đưa ra câu trả lời mà để lại những khoảng trống cho người đọc tự suy ngẫm. Câu chuyện của cụ Hàn Giảng, về bản chất, không phải là một câu chuyện đã khép lại mà là một câu chuyện vẫn đang tiếp tục diễn ra trong nhiều hình thức khác nhau.
Khi một người trẻ Việt Nam đi du học, làm việc trong một tập đoàn đa quốc gia, hay đơn giản chỉ đối diện với những áp lực phải thay đổi để phù hợp với xã hội hiện đại, họ cũng có thể cảm nhận được phần nào sự giằng co mà cụ Hàn Giảng từng trải qua.
Trong một thời đại mà nhiều giá trị cũ đang bị thách thức, khi những cuộc tranh luận về di sản, về danh tính, về lòng yêu nước vẫn diễn ra hàng ngày, Cuốn Lên Bức Mành mang đến một cách nhìn khác: không phải lúc nào cũng có một con đường đúng duy nhất, và đôi khi, sự trung thành với một lý tưởng có thể mang nhiều hình thức khác nhau.
Hình ảnh cụ Hàn Giảng lặng lẽ quét sân chùa, làm công quả sau những ngày tổ chức tiệc hưu trí, không chỉ là một chi tiết về cuộc đời ông mà còn là một biểu tượng của sự tự vấn, của hành trình tìm kiếm sự hòa giải giữa những lựa chọn đã qua. Đó là một hình ảnh có thể vẫn còn ý nghĩa đối với nhiều người trong thời đại ngày nay - khi đối diện với những áp lực thay đổi, người ta cũng cần một không gian để suy ngẫm, để tìm lại chính mình.
Hồi ký (tác giả gọi là truyện hồi ức), khi được viết bằng một cái nhìn cởi mở và một ngôn ngữ giàu tính gợi mở như Cuốn Lên Bức Mành, không chỉ là một cách để lưu giữ quá khứ mà còn là một cách để đối thoại với hiện tại. Lịch sử không khô cứng như những con số trên trang sách, mà sống động trong từng lựa chọn của con người qua các thời đại.
Sự ‘vén lên' ấy, suy cho cùng, không phải để khép lại một câu chuyện, mà để tiếp tục đặt ra những câu hỏi - những câu hỏi mà mỗi thế hệ đều phải tự mình đi tìm câu trả lời.
Cám ơn nhà văn Phạm Quốc Bảo đã kể lại câu chuyện của gia tộc mình để ‘vén lên' những phức tạp mà tầng lớp trí thức cho dù bị ném vào bất cứ giao lộ lịch sử nào cũng phải tự mình chọn lựa một vị thế đứng, một nhãn quan cho thật vẹn toàn, cho dù điều này đôi khi là bất khả.
(Trích email của Tô Đăng Khoa viết gửi cho Phạm Quốc Bảo vào thứ Hai, mùng 3 tháng ba 2025 lúc 12:44 PM)
oOo
Văn hữu nhận định:
Phan Tấn Hải
Cuốn sách sau 50 năm: Cuốn Lên Bức Mành
Bìa sách Cuốn Lên Bức Mành.
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà.
Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Thật sự là khó để nói về một tuyển tập rất là đa dạng, cho dù độ dày cuốn sách chỉ là 204 trang, nghĩa là không dài so với nhiều tuyển tập văn học hiện nay. Nhan đề sách là Cuốn Lên Bức Mành, theo giải thích chúng ta sẽ thấy bức mành là một trọng tâm của phần đầu hồi ức. Nói hồi ức, vì kể về cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934), ông ngoại của tác giả. Bức mành là những thanh tre, hoặc nứa, chẻ ra buộc vào dây, có thể cuộn lại, hay thả xuống. Cụ Bùi Văn Giảng do cơ duyên học được nghề chữa bệnh cho chó, mèo. Cụ chuyên chữa bệnh chó, mèo của các quan người Pháp, và cả các quan chức trong triều đình, và cũng không từ chối khi dân thường mang chó, mèo tới nhờ cụ chữa bệnh. Cụ được triều nhà Nguyễn phong chức Hồng Lô Tự Khanh, tòng tam phẩm thuộc Hàn Lâm Viện, nên còn được dân chúng gọi là cụ Hàn Giảng.
Cụ trải qua ba mươi năm làm thú y mới về hưu, lui về quê ở Thanh Hóa. Cụ Giảng khi mới về quê, đã tới thăm Hội đồng Hương chức, những người như Lý trưởng với Trương tuần đều ra trình diện. Chỉ vắng mặt cụ Tiên chỉ, người có chức vụ cao nhất trong làng. Cụ Tiên chỉ cho biết đang đi thăm mấy làng bên, và sẽ vắng mặt vài tuần. Nghe vậy là biết là vắng mặt thôi, không ai rõ tâm ý cụ Tiên chỉ thế nào.
Trong buổi ra mắt sách, từ trái: nhà văn Phạm Quốc Bảo (cầm sách), nhà văn Lê Lạc Giao, họa sĩ Pauline Đàm.
Trong chương được tác giả đặt là Tự Thanh Tẩy, nghĩa là tự làm trong sạch thân và tâm, cụ Hàn trong tuần lễ thứ ba mặc áo nâu sòng, khoác ngoài là áo trấn thủ màu mạ non, thường ngồi trầm ngâm cả ngày. Một hôm cụ Hàn tới thắp nhang, khấn vái trước bàn thờ Phật rồi bàn thờ tổ tiên ông bà, rồi đi bộ trong làng, không cho ai đi theo, tới thắp nhang trước miếu thờ Thành Hoàng làng, rồi tới nghỉ ở Văn Miếu, tới xế chiều mới về nhà. Hôm sau, cụ bảo xe tay đưa cụ đi thăm Phủ Giầy, tới chiêm bái quần thể kiến trúc tín ngưỡng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một hình ảnh tín ngưỡng cổ của dân tộc.
Sang hôm sau, cụ đi bộ tới ngôi chùa cuối làng, nơi Sư trụ trì trước khi xuất gia là một ông đồ dạy học cho giới trẻ trong các làng trong vùng. Sư cụ nổi tiếng về đức hạnh, tới mức, trích nơi trang 21, “ban quản trị làng xã – huyện – tỉnh nhà cùng nhau đồng lòng chính thức xin triều đình ban cho chức tòng cửu phẩm như một cách chính thức tri ân.”
Tới đây, chúng ta thấy một phần xã hội Miền Bắc đầu thế kỷ 20, nơi ông ngoại của nhà văn Phạm Quốc Bảo về hưu. Lúc đó là thời Pháp thuộc, triều Nguyễn vẫn còn giữ một phần quyền lực. Khi cụ Hàn rời chức vụ thú y của người Pháp, đồng thời cũng là chức quan Tam phẩm của triều Nguyễn, cụ lui về quê, tự làm trong sạch thân tâm bằng cách ghé thăm các nơi mang dấu ấn tín ngưỡng của dân tộc Việt, tới Phủ Giầy của Đạo Mẫu, rồi tới Thành Hoàng làng, rồi tới Văn Miếu, và sau cùng là ngôi chùa.
Nơi ngôi chùa này, Sư trụ trì trước khi xuất gia là một ông đồ dạy học. Và Sư trụ trì cũng có một phẩm quan (một cách tượng trưng) của triều đình. Như dường, vua quan xem nhà chùa như một phần của cấu trúc triều đình, dù là tượng trưng, có thể.
Dân tộc Việt một cách tự nhiên đã bao dung, đã hòa hài trong tương tác xã hội, trong bầu không khí này: Đạo Phật (Sư trụ trì), Đạo Nho (ông đồ dạy học), Đạo Mẫu (cụ Hàn tới thăm đầu tiên)... mà không gì vướng mắc. Hiển nhiên, nhà sư vì có trình độ cả Nho và Phật nên thấy ngay rằng Đạo Nho là trật tự, phép tắc của xã hội, nơi có vua, có quan... của thế giới hữu vi, trong khi Đạo Phật là con đường giải thoát của pháp vô vi. Trong khi đó, cụ Hàn là người của thế giới hữu vi, sống với hồn dân tộc, tự thanh tẩy mình theo cách riêng sau 30 năm làm nghề thú y cho các quan chức Pháp: tới Phủ Giầy (Đạo Mẫu), tới Thành Hoàng làng (văn minh làng xã), tới Văn Miếu (Đạo Nho) và rồi tới thăm chùa (Đạo Phật). Đây là một lộ trình tự nhiên của rất nhiều thế hệ ông bà chúng ta.
Sau cuộc hàn huyên, Sư cụ hỏi cụ Hàn, “Quan ngài đã cất công tới viếng cảnh chùa, hẳn cần ngỏ điều chi?”
Cụ Hàn thưa với Sư trụ trì, “...hôm nay mạo muội tự mình tới quấy rầy nơi thanh tịnh, trước là được lạy Phật, sau là mong vấn an Thầy. Rồi nếu không trở ngại gì thì xin được hai ngày cuối tuần này có thể đến chùa để làm công quả, mong sao có được hưởng chút ít gì từ công đức của ngài và Đức Phật cho chăng.”
Thế rồi, hôm sau cụ Hàn mặc bộ áo nâu sòng, khoác áo trấn thủ, vào chánh điện lễ Phật rồi ra cầm chổi quét sân chùa, tưới cây, gom lá rơi, bày bàn ghế, bưng nước và thức ăn cho khách thập phương lễ chùa. Rồi cụ vào ăn trưa với những người công quả, rồi làm tới tối mịt mới về nhà. Hôm sau Chủ Nhật, cụ Hàn cũng làm tương tự. Tới tối mịt, Sư cụ mời cụ Hàn vào uống trà. Sư cụ nói rằng Sư cụ và cụ Tiên chỉ đều là gốc nhà Nho, mang tâm sự lễ nghĩa Nho gia giữa một xã hội đang Tây hóa của thời Pháp thuộc, gặp những “trường hợp bất đắc dĩ lắm, bị bó buộc một cách quyết liệt” câu chuyện giữa nhà sư và cụ Hàn vẫn dè dặt, như dường nói về quốc sự nhưng rất kiệm lời, ít nhất là theo dòng văn của Phạm Quốc Bảo.
Như thế, chúng ta có thể hiểu ngầm rằng, cụ Tiên chỉ đi vắng mấy tuần lễ, khi nghe cụ Hàn về quê ở luôn, hẳn là trong lòng có gợn sóng gì chăng, khi một quan thú y làm việc 30 năm cho người Pháp về hưu. Câu hỏi khởi dậy ngay trong lòng người đọc: cụ Tiên chỉ không ưa người làm việc cho các quan chức Pháp, dù là hành nghề thú y, chuyên chữa bệnh cho chó và mèo?
Thế rồi, một hôm, anh Mõ làng báo tin cho cụ Hàn rằng cụ Tiên chỉ đi chơi mấy làng quanh bây giờ đã về. Cụ Hàn chờ thêm một ngày cho thư thả, rồi đi tới thăm cụ Tiên chỉ. Cụ Hàn có anh quản gia theo hầu, mang theo tráp và chiếc chiếu cói nhỏ, trong khi anh Mõ làng theo sát đưa đi. Tới nhà cụ Tiên chỉ, anh Mõ làng mở cổng, mời cụ Hàn tới ngồi nơi hiên nhà cụ Tiên chỉ, trên chiếc chiếu cói nhỏ anh quản gia trải ra, trong khi anh Mõ làng hô lớn về hướng trong nhà cụ Tiên chỉ rằng có quan Hàn tới thăm.
Lúc đó, tấm mành mành đan bằng các cọng trúc đang cuộn lại, đột ngột được giựt dây từ bên trong, buông xuống cái xoạch, che kín cả mái hiên. Rồi tiếng cụ Tiên chỉ từ bên trong ngâm thơ lớn, như dường đang giảng bài cho học trò. Cả Mõ làng và anh quản gia đều sững sờ, lùi lại gốc sim chờ. Cụ Hàn vẫn ngồi nghiêm trang nơi hiên ngoài, lặng thinh, bất động. Tiếng cụ Tiên chỉ bên trong hết ngâm bài thơ này, lại tới bài thơ khác.
Cụ Hàn ngồi lặng lẽ ngoài tấm mành như thế, bất động, mắt lim dim. Cụ Tiên chỉ vẫn ngâm thơ như không biết thế giới chung quanh, tấm mành vẫn che giữa trong và ngoài mái hiên. Tới trưa, cụ bà Tiên chỉ từ dưới bếp nhìn qua sàn nước, thấy cụ Hàn vẫn ngồi bất động, như dường vẫn lắng nghe cụ Tiên chỉ đọc thơ xuyên qua bức mành. Cụ bà Tiên chỉ mang bình nước sôi tới rót vào ấm nước trong tráp cụ Hàn, vẫn thấy cụ Hàn ngồi bất động.
Tới xế chiều, cụ Hàn vẫn ngồi bất động bên ngoài tấm mành. Bên trong tấm mành, tiếng cụ Tiên chỉ vẫn đọc thơ. Cụ bà Tiên chỉ rón rén tới thưa với chồng, cụ bà muốn dẫn con về bên ngoại. Cụ Tiên chỉ ngẩn người, đây là lần đầu tiên trong nửa thế kỷ vợ chồng, cụ bà Tiên chỉ đòi dẫn con về ngoại. Cụ Tiên chỉ hỏi vì sao bà làm như thế, được cụ bà Tiên chỉ nói rằng cụ Tiên chỉ không vén bức mành lên để đón tiếp cụ Hàn, thì nhỡ cụ Hàn chết ngồi sững sờ như thế, nghĩa là chẳng còn phúc đức nào giữ cho các con nữa. Nhà văn Phạm Quốc Bảo ghi rằng, nơi trang 28, “Cứ thế, mỗi một âm vọng lời nói gằn giọng của cụ bà là mỗi dìm cụ Tiên chỉ vào niềm trăn trở - dày vò – quặn thắt không nguôi tâm can của cụ...”
Cụ Tiên chỉ đứngd ậy, tự tay cuộn bức mành lên, và nói với vào trong cho cụ bà, dặn lấy thau nước cho quan ngài rửa mặt. Khi cụ bà mang thau nước lên, cụ Tiên chỉ dặn cụ bà “làm tạm món gì đấy để tôi hầu tiếp quan ngài nhá.” (trang 29)
Cuộc hôn nhân của cụ Tiên chỉ và cụ bà tới nửa thế kỷ mới lần đầu gây sự, và là lần đầu cụ bà đòi dẫn con về ngoại. Cụ Hàn và cụ Tiên chỉ ngồi, ngăn cách nhau chỉ một bức mành mành. Trong khi cụ Hàn ngồi bất động, cụ Tiên chỉ liên tục đọc hết bài thơ này tới bài thơ kia, từ sáng cho tới xế chiều. Tới lúc chúng ta có thể tự hỏi, có bức mành mành nào đang ngăn cách dân tộc thành hai miền, hệt như chuyện hai cụ ngồi cách nhau bức mành trúc như ở hai thế giới khác nhau như thế?
Thế rồi cụ Tiên chỉ và cụ Hàn ngồi đối ẩm, nói chuyện lễ, nghĩa, chuyện làng. Qua câu chuyện, độc giả thấy rằng cụ Hàn kể, cụ Hàn luôn luôn về dự các lễ lạc trong làng và lần nào cũng thấy mâm cỗ cụ Hàn để dưới cùng, chỉ trên duy nhất mâm cỗ anh Mõ làng. Chỗ này chúng ta thấy rằng, làm quan Tam phẩm triều đình, làm quan thú y cho người Pháp, nhưng về làng chỉ là người áp chót. Thế rồi cụ Hàn kể cho cụ Tiên chỉ về cơ duyên học nghề thú y để chuyên chữa bệnh chó, mèo cho người Pháp, mà cụ vẫn không từ chối chữa bệnh chó, mèo cho bất kỳ ai mang tới, dù là dân nghèo thế nào. Rồi hai cụ nói chuyện về các phong trào Cần Vương, Văn Thân, rồi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, và nhiều nữa. Hai cụ nói ra lời như chung một tấm lòng. Không còn gì ngăn cách hai cụ nữa.
Thế rồi cụ Hàn nói, dòng họ Phạm của cụ Tiên chỉ và dòng họ Bùi của cụ Hàn trước kia nhiều thơi theo nghiệp thư hương, cùng nổi tiếng về văn học, nhưng mọi chuyện tan tác từ khi người Pháp vào. Phía dòng họ Phạm của cụ Tiên chỉ liên tục có người hy sinh cho phong trào Cần Vương, rồi Văn Thân, trong khi phía họ Bùi chìm lỉm vào bóng tối, có lúc ngộ nhận nhau. Nhà văn Phạm Quốc Bảo ghi lời cụ Hàn, “Hiện tượng này gây sự chia cắt đến độ có lúc thành chống đối lẫn nhau. Gần nửa thế kỷ qua, làng ta quay quắt trong ngậm ngùi...”
Tới đây, chúng ta có thể hiểu rằng trước khi cụ Tiên chỉ buông tấm mành xuống để cản bước vị khách quan chức họ Bùi, hai dòng họ đã có nửa thế kỷ “chia cắt đến độ có lúc thành chống đối lẫn nhau.”
Bây giờ cả cụ Tiên chỉ và cụ Hàn đều tới tuổi sắp ra đi, than ôi. Thế rồi, cụ Hàn nói rằng cụ Hàn có đứa con duy nhất với bà chính thất: cô gái này mới 16 tuổi, năm ngoái mới đậu bằng Thành Chung. Trong thời Pháp thuộc, văn bằng này giành cho học sinh học hết 5 năm bậc tiểu học và 4 năm bậc trung học thì phải thi lấy bằng này. Trong đầu thế kỷ 20, hiếm người học tới như thế tại Việt Nam. Thế rồi cụ Hàn nói rằng cụ muốn gả cô con gái cho một cậu nào con cụ Tiên chỉ. Cụ Hàn nói, nơi trang 62, “Nếu cụ Tiên chỉ không chê, tôi mong cháu nó được kết thân với cậu nào bên cụ.”
Cụ Tiên chỉ trả lời rằng cụ bối rối khi nghe như thế. Cụ Hàn nói, “Tôi trộm biết, nhờ Trời – Phật – Tổ Tiên – Ông Bà phù hộ, bên cụ quả có đông các anh. Như anh Đội Phùng vừa phải phát vãng tù ngoài Côn Sơn nhân vụ Khởi Nghĩa Yên Báy. Anh Soạn thì đang phục vụ phong trào Kháng Chiến ở đâu đấy...” (trang 62)
Thế rồi, cụ Tiên chỉ nói, “Đến anh Định nhà tôi thì... nghe đâu đang làm biên tập cho tờ Gia Định Thời Báo ở trong Nam.” (trang 62)
Nhà văn Phạm Quốc Bảo ghi chú rằng tên thật của ba người con của cụ Tiên chỉ là Phạm Hữu Phùng, Phạm Hữu Soạn, Phạm Hữu Định.
Rồi cụ Tiên chỉ kể về anh Định, một người mê văn học và rộng rãi với bằng hữu. Anh Phạm Hữu Định một hôm cho bạn mượn bộ sách hiếm quí bằng chữ Nôm là Chinh Phụ Ngâm Khúc. Khi cụ Tiên chỉ bào cậu Định lấy cuốn này ra đọc lớn cho cụ nghe, thì anh Định lấy cuốn Kim Vân kiều truyện ra ấp úng đọc. Thế là chỉ đọc được vài câu đầu Chinh Phụ Ngâm còn thuộc lòng, tới mấy câu sau thì đọc sai, cụ Tiên chỉ liền “giựt lấy cuốn sách, tôi mới phát giác ra sự thể. Anh ấy phải thú thật là vừa cho bạn mượn rồi. Thế là tôi nổi nóng, cầm gậy đuổi đánh. Anh ấy cứ thế mà chạy khỏi nhà rồi sẵn trớn lên Hà Nội trốn luôn... Mới đây nghe báo lại rằng anh ấy đã được bạn giới thiệu vào trong Nam làm báo kiếm sống ở Sài Gòn rồi.” (trang 63)
Nghe chuyện, cụ Hàn nói, “Ô... Hay quá đấy.”
Cuộc hôn nhân của cô thiếu nữ con cụ Hàn có xảy ra hay không? Và nếu có cuộc hôn nhân, thì với cậu nào, và như thế nào? Độc giả có thể tìm đọc thêm từ tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành.
Trong phần 2, tức là “Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại,” nhà văn Phạm Quốc Bảo kể về những chuyện gọi là những gì xảy ra đến nát nhàu tâm can, những gì xảy đến nôn nao cõi lòng... và rồi từ năm 1997, hai vợ chồng Phạm Quốc Bảo thực hiện chương trình “Nhóm Tình Thương,” để bảo trợ các sinh viên nghèo đi học. Trong phần 2, tác giả cũng kể về những kỷ niệm với bạn hữu, và những suy nghĩ về bản sắc Việt.
Trong phần 3, là 23 bài thơ của Phạm Quốc Bảo.
Cuối sách là phần Bạt, do Tô Đăng Khoa viết, nhan đề “Cuốn Lên Bức Mành Quá Khứ: Hồi Ký, Ngôn Ngữ và Cầu Vượt Qua Những Giao Lộ Lịch Sử.”
Sách dàn trang, thiết kế bởi Lê Giang Trần, xuất bản bởi SỐNG Publishing. Sách đang lưu hành trên Amazon:
https://www.amzn.com/B0F2KSC629/
Nhìn chung, trong những ngày tròn 50 năm sau tháng 4 năm 1975, tác phẩm Cuốn Lên Bức Mành nhắc lại cho chúng ta về một quê nhà xuyên suốt hơn một thế kỷ, về câu chuyện xung khắc nửa thế kỷ giữa họ Phạm và họ Bùi. Và rồi cụ Hàn bên nhà họ Bùi tới gặp cụ Tiên chỉ họ Phạm để nói rằng muốn gả cô con gái 16 tuổi học giỏi, đảm đang cho cậu nào bên nhà họ Phạm, dù biết rằng các cậu nhà họ Phạm, người thì đang ở tù, người thì đang theo một cuộc khởi nghĩa chống Pháp, và một người thì lưu lạc chưa rõ nơi nào trong văn giới.
Hãy đọc để biết rằng có một bức mành tre ngăn cách giữa hai cụ già nơi hiên nhà, giữa một cụ ngồi tịch lặng như núi đá và một cụ đọc thơ sang sảng như để ngăn những xúc động khi nghĩ tới quê nhà. Hãy đọc tác phẩm này để biết rằng có một sự hòa hài tự nhiên trong xã hội Việt Nam của Đạo Mẫu, Đạo Nho, và Đạo Phật. Hãy đọc để biết rằng các cụ xưa tự thanh tẩy bằng cách đi quét lá chùa như thế nào. Đọc về chuyện của các cụ thời xưa, cũng là lúc để suy ngẫm về chuyện của chúng ta thời nay. Trân trọng cảm ơn tác giả Phạm Quốc Bảo về những dòng chữ làm tôi xúc động.
Phan Tấn Hải
(https://vietbao.com/p301418a321977/cuon-sach-sau-50-nam-cuon-len-buc-manh) |