SỐ 107 - THÁNG 7 NĂM 2025

 

Má ơi!... Má đâu rồi!!! (*)

Bài hát này đầu tiên tôi nghe từ một chương trình thi chọn tài năng của một ca sĩ nhí, bước đầu sự nghiệp ca hát cậu được một ca sĩ nổi danh nhận làm con nuôi. Cậu này vẫn còn mẹ nhưng hay hát về những bài ca đêm buồn nhớ mẹ không khỏi khiến người ta thắc mắc với suy nghĩ, có phải vì tương lai thăng tiến sau này nên mẹ con phải ép lòng xa rời nhau? Khi ấy tôi trong tâm trạng đang thưởng thức một bài hát với ca từ của người đang biểu diễn khiến người nghe xúc động. Cũng vậy với các bài hát viết về mẹ được xem nhiều lần trên youtube của một chương trình lô tô giải trí hầu hết là ca sĩ chuyển giới. Có phải vì xót cho thân phận của mình nên họ trải lòng rất thật với giọng hát bi thương ‘Má ơi! Má đâu rồi’. Tôi không phải người khó tánh nên rất dễ xúc động. Thời còn trẻ lúc nào xem những vở bi kịch trên TV là tôi giọt ngắn giọt dài đến nỗi anh chàng người yêu phải chế giễu tôi em là cái máy khóc, nhấn nút là khóc! Tôi giận đến mấy ngày và chê anh là người có trái tim sắt đá lạnh lùng như chưa hề biết kiếp người: ‘Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra’ dù chỉ trong văn chương sách vở.

Hôm nay tôi rơi lệ từ đầu đến cuối ngay cả khi gõ những dòng chữ này ‘Má ơi... Má đâu rồi!!!’ Bây giờ mới thấm được nỗi đau tác giả khi viết thành lời khóc than nỗi đau mất mẹ!

“Má ơi! Nuôi con má khổ trăm bề... Đến khi bước chân ra đời dù nghèo hay sang thì con ơi nhớ mấy câu ‘Má thương con hoài’ Để hôm nay chân bước về qua hàng sầu đâu.. Má đâu rồi! má đâu rồi!. Lòng con ngày đêm thương nhớ, má ơi con về mà má nơi đâu.” (*)

Năm ngoái tôi hãnh diện khi dự lễ Vu lan rằm tháng Bảy trong chùa, tôi đã chọn cho mình bông hồng khi một cháu gái mang rổ bông đến trước mặt, lòng hạnh phúc vì vẫn còn mẹ. Năm nay tháng tới cũng là lễ Vu lan nhưng trong tay tôi sẽ là một bông hồng trắng vì tôi vừa mất đi diễm phúc lớn lao của một người còn có mẹ. Con gái tôi chạy vào phòng kêu to:

- Má ơi! Ngoại chết rồi!!

Tôi đang đứng bỗng thối lui muốn ngã quỵ giống như mất thăng bằng, đồng thời nghe tiếng kêu từ trong message trong điện thoại của nhỏ em gởi qua từ Việt Nam ‘Chị ơi! Má mất rồi’.

Thảng thốt tôi yếu ớt hỏi:

- Tại sao? Vì sao má mất!!!

Lòng không tin nhưng tôi biết mình không có nghe lầm. Má tôi rất khỏe mạnh không hề mắc một chứng bệnh cho dù là tim, phổi, thận, hay máu mỡ. Ở tuổi chín mươi bảy những đứa con của má đang chờ thượng thọ một trăm bởi bà vẫn rất minh mẫn. Quán cà phê nhỏ bán trước nhà má vừa mới giao lại cho đứa em gái thứ chín ở chung nhà với bà mới vừa được nghỉ hưu ở công ty về. Trước đó mỗi ngày bà vẫn tới lui, bước lên xuống bậc tam cấp nhanh nhẹn thoăn thoắt, cầm xấp tiền móc trong túi đếm rành rẽ thừa thối lại cho khách không hề sai chạy lầm lẫn. Buổi tối tôi thường gọi điện về hỏi thăm vì bên ấy là ban ngày, giọng nói má tôi vẫn nghe sang sảng chứng tỏ má rất khỏe mạnh. Vậy thì tại sao bây giờ lại chết? Tôi đã quên hai chữ “vô thường” trong cuộc sống, đến và đi bất thình lình không báo trước rồi sao? Nhỏ em thứ chín sống chung với má kể lại:

- Hồi sáng ngủ dậy má vẫn bình thường, ngồi chơi trước nhà một chút má uống sữa em gọi hai bà chị sáng nào cũng qua nhà, em nói hai bà trông chừng má và khách uống cà phê giúp em, để em đi mua phở về cho má ăn sáng. Hai bà này đỡ má nằm nghỉ, khi em về em tưởng má ngủ nhưng nhìn thì thấy mấy đầu móng tay tím bầm, em la lên mọi người xúm lại, một anh khách quen sáng nào cũng đến quán nhìn má rồi nói “Má đi rồi”. Má đi bất ngờ một cách nhanh chóng không ai hay!!

oOo

Chị em tôi biết tuổi má đã lớn má có thể ra đi bất cứ lúc nào nhưng không ngờ lại rất nhanh không có điều gì báo trước cho thấy đau bệnh gì. Bản thân tôi dị đoan mê tín đến nổi không dám kẹp lên đầu chiếc kẹp màu trắng sợ xui xẻo vì tôi còn mẹ già. Hôm Tết nhỏ em Út về thăm, hai má con ngồi trên ngạch cửa nhìn ra đường xem xe cộ người ta đi qua lại như mọi khi. Nhỏ Út này là ‘nữ hoàng tự sướng’ lúc nào cũng đưa hình lên facebook. Út đưa hình hai má con ngồi cạnh nhau, dường như điềm báo trước nó ôm má rồi hát thì thầm: “Mẹ già như trái chín cây, gió lay mẹ rụng con thì mồ côi”. Lúc đó tôi nhìn thấy nét mặt má bình thản yên lặng nhìn xa xăm không có nét vui hay buồn? Bây giờ tôi mới thấm thía lời giảng của thầy Nhất Hạnh:

‘Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: “ Tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi!”. Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi.’ Má có mười đứa con. Chị em chúng tôi đã bỏ mẹ mà đi, đứa ở Mỹ, đứa bên Đức, hai đứa ở Canada đi theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai, con gái mình thương yêu.

Đám tang má bầy con tụ hội về mới đông đủ, chua xót đau đớn làm sao!!. Bên bàn thờ vong linh của má chúng tôi mời chư tăng đến để cúng dường cầu xin thần lực chú nguyện cho má được vãng sanh tiêu diêu về miền cực lạc. Cũng lại là nhỏ Út đoạn phim ngồi chờ ở phi trường lúc về lại đưa lên than thở:

‘Má ơi những lần trước cũng tại nơi này các con chờ về nhà đường đi cũng giống như nhau nhưng tâm trạng lại khác bởi lần tới dẫu có về cũng không còn má nữa rồi!’.

Buổi sáng sớm facebook đã đẫm lệ, nghẹn ngào:

“Em sửa soạn đi làm như mọi lần, hôm nay nhớ má khóc quá trời!!”
“Cũng như mọi ngày bán cà phê, thuốc lá. Má ngồi bên thềm cửa, thu tiền, thối lại cho khách. Bây giờ không còn má giúp cho em!!! Nhớ má không dằn lòng được lại khóc.”
“Mai mốt tụi con về thăm lại Việt Nam không còn thấy cái dáng gầy ốm của bà ngoại ngồi trước cửa nữa rồi!!!”

Những ngày làm đám tang không đứa nào rơi nước mắt vì má nói hoài không muốn ai khóc khi má qua đời. Các con tụ tập đông đủ với nhau vì hiếm khi gặp mặt một lần nhưng giờ sao lại không vui. Buồn nhưng không dám khóc vì sợ kinh động giấc ngủ thiên thu của má. Bây giờ là những cánh chim mồ côi lẻ loi tha hương bốn phương trời một mình nhớ má mặc tình rấm rứt than khóc!

oOo

Ba tôi là công chức đồng lương của nhà nước lãnh được có giới hạn. Gia đình nào con đông dĩ nhiên không đủ sống. Má trong mắt tôi là một phụ nữ rất giỏi giang, tằn tiện bà bươn trải chịu cực kiếm thêm phụ với chồng lo cho bầy con. Tôi là con gái thứ hai kế người chị lớn, ngày hè trong khi chị ở nhà giữ các em, lo cơm nước. Tôi rong ruỗi bên cạnh phụ giúp má gánh gồng bán buôn, theo những chuyến xe đò xuôi ngược. Con đi chuyến trước, má đi chuyến sau mua hàng đem về bỏ mối. Những ngày ấy tôi bắt chước câu hát ru em ngoài dân gian: “ Trắng da vì bởi phấn dồi, Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.”  nhìn cánh tay đen vì bị ăn nắng của mình mà hát lên mỗi lần đưa võng dỗ em ngủ.

Những năm ấy tôi còn nhỏ độ mười một mười hai tuổi thôi. Hồi đó đầu thập niên sáu mươi người Mỹ đến giúp đỡ người dân Việt Nam ở các làng quê nghèo khó. Công nhận họ giàu thật, từ một đất nước xa xôi bên kia bờ đại dương mang hàng viện trợ đến cho không gồm đủ các loại thực phẩm, mỗi vỏ hộp đựng đều có hình ảnh hai bàn tay nắm lại với nhau. Những thứ này chính phủ cấm bán buôn hay vận chuyển ra khỏi địa phương khi được cấp phát. Trong số đó có một thứ người nhà giàu sống ở Saigon rất thích, người ta gọi là dầu đậu nành dùng để nấu ăn, thơm và không có mùi như dầu đậu phọng ở Việt Nam. Má tôi đi khảo sát giá và nghiên cứu cách làm sao có thể mang chúng về thành phố mà không bị bắt tịch thu. Bà mua gom tất cả những thùng dầu của người dân được Mỹ phát cho trong các trại gia binh, cứ hai gia đình được một thùng bốn lít. Mỗi tháng được phát hai lần làm sao ăn cho hết, thế là họ mang bán lại lấy tiền mua thứ khác. Má đem về nhà một người bà con ở địa phương, với bàn tay khéo léo bà cạy nắp hộp chiết từ các thùng nhỏ sang một cái thùng lớn không tên tuổi loại hai mươi lít. Dĩ nhiên cái thùng bốn lít không chứa đựng gì ở trong, tôi ung dung vác bao thùng rỗng theo xe đò về nhà trước. Má tôi khệ nệ mang lên xe đò năm cái thùng hai mươi lít chứa đầy dầu đậu nành. Về nhà má sớt lại từ thùng lớn qua thùng nhỏ nguyên si như ban đầu, vì là mối quen cung cấp nên họ không sợ dầu giả. Cứ mỗi ngày đi như vậy cũng đã mua hết hàng được viện trợ ở địa phương và cũng sắp hết hè tôi phải trở lại học lớp Tiếp liên vì thi rớt Đệ thất năm rồi. Không ngờ lần này là lần đầu cũng như lần cuối, khi xe đò qua trạm xét cuối cùng của cảnh sát trước khi vào Saigon, bao thùng rỗng trên nóc xe bị kéo xuống mang vào trạm gác. Tôi đứng ngó ra ngoài cửa sổ bên cạnh bao thùng không bỗng nhiên ứa nước mắt, viên cảnh sát tiến tới không nói gì ở tôi mà chỉ hỏi:

- “Nhỏ mày khóc hả?”

Tôi cãi bướng:

- “ Tôi khóc hồi nào? Bụi làm xót mắt tôi thôi”

Tuy còn bé nhưng tôi rất gan dạ và rất lanh bởi tôi không ăn cắp ăn trộm nên không hề sợ hãi, má biết tôi không khờ như chị tôi nên mới dẫn đi theo. Bấy giờ là thời kỳ chiến tranh bắt đầu trở lại các trạm gác đặt ra chỉ với mục đích ngăn chận Việt Cộng giấu vũ khí và chất nổ vận chuyển vào thành phố khủng bố dân chúng. Những cái thùng rỗng không phải là thứ gây nguy hiểm, cũng không là chứng cớ tôi mua bán hàng cấm, cho dù có bị gặng hỏi tôi sẽ đáp lại là của bà con cho tôi mang về làm thùng xách nước. (Rủi ro cảnh sát có theo dõi hỏi tôi thêm câu nữa ‘Mày làm thùng xách nước gì mà ngày nào cũng mang một bao cả chục thùng’ chắc là tôi ngọng luôn không trả lời được.)
Không biết viên cảnh sát trẻ tuổi nghĩ gì khi nghe tôi chối leo lẻo và trả lời như vậy, anh này xua tay bảo thôi đi đi.

Sở dĩ tôi chảy nước mắt vì có một chút tủi thân, má tôi là một phụ nữ tạng người ốm yếu vợ một công chức nhà nước lại phải chịu cực phụ với chồng kiếm tiền nuôi sáu đứa con, tôi còn nhỏ không làm được gì hơn chỉ giúp cha mẹ được như vậy thôi. Thời buổi gạo châu củi quế bắt đầu làm những gia đình có đông con thêm khó khăn. Tôi và người chị lớn ngay từ buổi này đã manh nha ý niệm muốn làm điều gì đó lớn hơn tuổi mình để giúp cho cha cho mẹ nuôi các em.

Tôi nói không ngoa khi xưng tụng má tôi là một người phụ nữ giỏi và gan dạ hiếm có. Năm kế tiếp tôi thi đậu Đệ Thất trường GL hai chị em sẽ phải đi học nữa ngày buổi chiều cùng với nhau. Đầu mùa hè bỗng nhiên má nói với tôi, bà đi chợ gặp bạn hàng nơi bỏ mối dầu ăn trước kia thấy có những hàng hóa lạ thu hút khách mua, má dò hỏi và quyết định đi theo lời người ta chỉ dẫn, đến môt địa phương nằm giữa biên giới Việt Miên có tên là chợ Gò Dầu để xem có thể buôn bán được gì. Má đi từ sáng sớm đến tối mịt mới trở về, bà mang về nhiều hàng hóa mang nhãn mác nước ngoài, dầu xanh Hongkong, bình thủy Trung cộng... Bó trong hai đùi má là xấp lãnh đen may quần hiệu Mỹ A phụ nữ rất thích, kèm theo mấy thúng khô cá của Biển Hồ Campuchia và những sắc đường thốt nốt cùng nhiều thứ hàng tạp hóa khác nữa. Sáng sớm còn mờ sương tôi gánh hai đầu thúng khô theo má ra chợ nhóm dọc theo lề đường gần nhà ngồi, trưa một chút má để tôi bán một mình và đi rảo quanh chợ mua vài thứ thức ăn, không đợi tan chợ hai má con tôi về trước để má và chị tôi nấu bữa cơm trưa cho ba tôi tan sở về ăn và chị em tôi trở lại trường khi bắt đầu niên học mới. Vòng đời cứ quay như thế nhờ má mà bữa cơm trong gia đình phong phú hơn. Má tôi không thuộc nhóm những người vợ chỉ biết ngồi trông chờ đồng lương của chồng.

Chuyện buôn bán kéo dài cho đến năm Mậu Thân xảy ra mùa hè năm ấy trong đợt tấn công của Cộng Sản căn nhà chúng tôi cháy rụi. Gia đình tôi kéo nhau ngụ tạm nhà người quen trên đường Trần Hưng Đạo, ba tôi bị cấm trại 100% không được về nhà, má dẫn chị em tôi ra ngồi trên lề đường ngóng nhìn về phía nhà mình, má rơi nước mắt nhìn tám đứa con lít nhít (không biết sao thời ấy nhiều nhà nghèo mà đẻ con dữ dội quá?!) Hôm sau ba tôi xin chiếc xe của sở về chở hết gia đình tôi vào trại tạm cư có người đồng nghiệp làm trưởng trại. Thấy gia đình tôi đông con ông phân chia nửa lớp học cho ở tạm. Cái khó không bó cái khôn, má tôi với bầy con nhỏ không nhà cửa tưởng rằng phải chịu thua, không ngờ khi bà nhìn thấy thực phẩm viện trợ Mỹ cấp phát cho các gia đình trong trại ngoài gạo, cá hộp, bên cạnh có những bao bột bắp, cốm dẹp (sau này sang Mỹ mới biết gọi là oatmeal) hai thứ này người Việt hồi ấy không biết ăn, bột bắp chỉ biết vo viên làm bánh cay bánh rế chiên giống của người Ấn, còn cốm dẹp thì bó tay không ăn được, nấu lên nó nhão nhoẹt cháo không ra mà cơm cũng không giống. Gạo cấp phát không nhiều và không ngon vì gạo Mỹ hột tròn vo người ta ăn không quen. Công nhận má tôi thật lanh trí, hai thứ bột và cốm này người ta xem như bỏ đi. Không hiểu từ khi nào má biết phong trào nuôi gà Mỹ đang nổi lên? má sai hai chị em tôi rỉ tai mọi người để mua lại hai thứ bột này, gom được khoảng năm chục, một trăm ký là mang đi bán cho những gia đình chăn nuôi gà. Sau đó má liên lạc được một trại chăn nuôi nên cung cấp bao nhiêu người ta cũng lấy. Viện trợ cho người tị nạn gần một năm, ngôi trường chúng tôi ở là trường tư thục nhưng vẫn phải mở lại. Năm ấy tôi học Đệ Ngũ gián đoạn hơn nữa năm vì chiến tranh, bộ giáo dục vẫn cho tất cả lên lớp Đệ Tứ, chị tôi học hơn tôi một cấp lớp. Các gia đình chiến nạn được dồn về những khu nhà chính phủ tạm xây trong các sân vận động để chờ tái thiết xây cất các gian chung cư. Nhà tôi cũng phải dọn đi theo và được ưu đãi cấp cho hai gian. Hai chị em cùng đi học buổi sáng nghỉ buổi chiều. Tôi mười lăm chị mười bảy đang bắt đầu trổ mã. Ba má tôi quan niệm đứa con lớn là cánh chim đầu đàn sẽ dẫn dắt bầy em đi theo con đường nên người hay hư hỏng. Chuẩn bị cho đường đời sau này của con mình, má bèn đi tìm người chị họ con người dì, bà này có một cửa hàng bán toàn đồ ngoại nhập ở đường Nguyễn Huệ, má gặp dì xin cho hai chị em ra cửa tiệm giúp việc một buổi để “học khôn”. Bà này bằng lòng hai chị em tôi thay phiên mỗi người một buổi chiều ra bán hàng cho dì. Lương lãnh phần lớn chị em tôi đưa má phụ giúp nuôi em chứ không hề sắm sửa cho mình.

Má tôi bất hạnh mồ côi mẹ năm mười hai tuổi, mẹ ghẻ thời xưa ở quê ít học và rất hà khắc với con chồng, nhất là con gái! Tôi xem vở tuồng hai trẻ mồ côi Nghi Xuân Tấn Lực là hiểu má tôi khổ đến độ nào, má bị bắt nghỉ học làm việc nhà. Má có người dì họ, bà này chồng chết có ba người con gái trạc tuổi của má, bà làm chủ một vựa trái cây lớn có nhiều người giúp việc. Má xin ở lại luôn giúp việc nhà cho bà. Bà nhìn má tôi chép miệng than:

- Má mày là chị họ của tao, vì bất hạnh chết sớm để lại con gái bây giờ không có mẹ, không cha dạy dỗ. Ba mày cũng rất tệ con gái xin đi đến nhà tao cũng không hề thấy ba mày ghé thăm xem con có đi đúng chỗ như lời nói hay không? Rủi ro con mình bị người ta dụ dỗ đưa vào “nhà số” thì sao?

Thế rồi má tôi ở với bà dì họ “học khôn” và biết cách buôn bán từ lúc ấy. Giờ đến lượt một trong ba người con gái của bà này, má lại gửi gấm hai chị em tôi theo để “học khôn”. Sau này chúng tôi gọi dì họ của má tôi là bà ngoại.

oOo

Thời buổi tiến hóa theo đà văn minh người ta còn gọi là thời kỹ thuật số “a còng”. Lòng vòng rồi đặt vấn đề hỏi đố nhau không ai giải đáp được, con gà có trước hay cái trứng có trước. Bây giờ áp dụng công nghệ sinh học những cái trứng nở ra gà con không cần gà mẹ ấp ủ, trong các trang trại to rộng sẵn thức ăn nước uống gà con không biết lo sợ, không có cảm giác được mẹ yêu thương che chở. Chưa có hình ảnh nào thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cho bằng khi gà mẹ dẫn bầy gà con chạy lăng xăng theo kiếm mồi, gà mẹ luôn xòe đôi cánh bảo vệ bầy con thơ chui rúc dưới thân mình khi nhác thấy hay nghe tiếng kêu của những con quạ ác là chuyên bắt gà con bay qua, tất cả bây giờ dần dần trở thành những hình ảnh thật xa xôi khó tìm. Má tôi là con gà mẹ điển hình đã che chở bầy gà con chúng tôi giờ không còn nữa rồi.

Hôm nay là ngày thứ bốn mươi hai má chúng tôi mất. Thân xác chỉ còn một nắm tro! Có lần tôi đọc một quyển sách tựa đề “Người ta sau khi chết đi về đâu?” Tác giả viết người chết sau khi rời thân thể linh hồn họ vẫn tồn tại chung quanh người thân, họ nhìn thấy mọi người nhưng không ai nhìn thấy họ. Đạo Phật lại giải thích và đi vào chi tiết rõ ràng hơn. Con người khi mất đi cho dù thể xác không còn nhưng linh hồn họ vẫn còn. Thi hào Nguyễn Du cũng đã xác quyết: “Thác là thể phách, còn là tinh anh” Tinh anh là phần hồn. Má vẫn còn quanh quẩn lưu lại trần thế trong vòng bốn mươi chín ngày. Bàn thờ linh với bức hình trên đó các con cứ nghĩ là má vẫn còn hiện diện đâu đây, bảy ngày nữa là đúng bốn mươi chín ngày má thực sự lìa xa các con đi về hư vô vì bàn thờ vong linh không còn được để riêng, má phải được thờ chung cùng với Cửu huyền thất tổ. Nhớ lại ngày trước chị em tôi làm lễ mừng thượng thọ má chín mươi tuổi ở chùa, đã mời năm vị đại lão hòa thượng và mười mấy vị sư đến chùa để cúng dường chư tăng theo đúng nghi thức Phật Giáo cầu xin cho má trường thọ. Lúc đó má hết sức vui mừng và luôn miệng nói má rất mãn nguyện. Bây giờ cũng vậy cuối cùng của đời người là lễ bốn mươi chín ngày, chị em tôi cũng mời được ba vị sư làm chủ tế và mười vị nữa đến nhà, nhờ thần lực của các chư tăng tụng niệm để má được mãn nguyện siêu sanh tịnh độ. Lần này khác trước vì má đã mất nên bên cạnh việc cúng dường trai tăng chị em tôi bàn nhau phải kèm thêm bố thí, phát chẩn gạo, tiền cho người nghèo để hồi hướng công đức cho má.

Chị em tôi giờ giống như bầy gà con mất mẹ, cả bầy đứng chùm nhum ngơ ngác, vài con nghển cổ nhìn quanh, con khác nghiêng đầu tìm mẹ, một con kêu chíp chíp gọi mẹ rồi cả bầy ùa nhau thảm thiết kêu, như tiếng lòng của chị em tôi từ trong tâm thức ‘Má ơi! Má ơi! Má đâu rồi!!”

Cỏ Biển
Mùa Vu Lan tháng 7 / 2025


(*) Trích trong bài hát ‘Má thương con hoài’ của tác giả Phạm hồng Biển.

 

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025