|   ÔNG ĐỒ Hà Nam Ninh năm 1978, trong giam tù  cải tạo miền Nam. Một hôm Hảo và một số anh em được  cắt làm vệ sinh tổng quát nơi ăn chốn ở theo định kỳ. Công việc gồm quét rác,  cào, hốt. Xong thì anh em chia từng cặp gánh rác đi đổ tại bãi bên ngoài trại,  nơi cách cổng chính chừng trăm thước. Cặp Hảo đi hàng thứ tư.  Đến bãi đổ rác thì hô một...hai...ba...hất.        Cái càng xé rác nhảy xuống, nhồi  lên một cái nhẹ rồi lật ngang. Anh bạn của Hảo dùng chân đẩy vào hông nó cho  lật úp. Tất cả rác lọt ra bên ngoài.  Hảo cúi xuống lật càng xé lên, xỏ  cây đòn vào quai để mang về trại bỗng thấy gần đó một cuốn sách to cỡ bàn tay  người lớn, bề dày cũng đến gần tấc tây. Cái bìa màu đỏ của nó bị cháy gần hết.  Ruột sách ướt nhẹp. Trên trang đầu chi chít chữ tàu. Nhìn kỹ mới thấy đó là  cuốn tự điển.  Tự điển thường là loại sách được  biên soạn rất công phu. Người soạn phải bỏ vào đó rất nhiều tâm huyết và hoài  bão. Nhìn sách đó thấy dường như nó có hồn. Anh bạn của Hảo lúc đó đang đứng  nhìn về hướng Tây, nơi anh nói là làng Non. Thời anh chín, mười tuổi đã sống ở  đó với nhiều kỷ niệm khó quên. Nhìn xong về hướng quê cũ xong, anh vươn vai,  uốn éo mấy cái cho giãn gân cốt.  Hảo kéo miệng càng xé đền gần cuốn  sách rồi dùng chân mà kín đáo vít nó vào bên trong. Trên đường vào trại, anh  bạn đó không hề biết rằng anh ta và Hảo đang gánh một gánh chữ trên vai.  Vào đến lán, Hảo tìm một chỗ thật  kín mà cất quyển sách vừa lượm được. Xong thì ra giếng kéo nước rửa mặt, rửa  tay chân rồi trở vào lo đến quyển sách kia.  Như đã nói, cuốn sách đã phải hứng  chịu sương gió trong nhiều ngày nên mọi trang của nó đều bị ướt; không phơi  phong cẩn thận thì sách sẽ bị rã ra.  Sau  rồi cũng phải tìm cách đóng nó lại cho chắc chắn.  Nhìn cuốn sách, Hảo nghĩ rằng nó  đang lắng nghe, và biết rằng đời của nó chỉ tùy vào sự phán quyết của Hảo. Rồi  như nghe lời nó than thở :" Tôi bị như thế này vì tôi phải bị như thế này.  Ông thương thì tôi còn. Ông không thương thì tôi tiêu." Tự nhiên Hảo thấy  mình thành quan trọng mà rồi nghĩ thương cho mình và thương cho quyển sách kia  quá chừng. Hảo thấy mình phải giữ nó bằng mọi giá.  Bắt đầu là phơi. Hảo để nó vào túi  một cái áo, mang ra sân phơi rồi vào ngồi ở hiên nhà gần bên mà canh chừng. Khi  nắng đổi chiều thì ra quay cái túi có đựng sách vào đúng hướng có nắng. Đêm thì  ủ nó trong chăn cho nó... chóng khô. Mất tất cả năm buổi phong phơi và sáu đêm  ấp ủ như thế, cuốn sách mới được gọi là... bớt ẩm; nhưng từng tờ sách thì cong  queo. Cái này là việc nhỏ. Xếp các trang lại cho ngay ngắn rồi lót đầu nằm  chừng vài tuần, vài tháng, vài năm thì dù các trang giấy có bị nhăn hay cong  chi cũng phải được uốn ngay lại. Rồi khi xếp trang đầu mới thấy đó là cuốn  Hán-Hán Tự điển do tác giả là Vương Vân Ngũ biên soạn và ấn hành năm 1954 tại  Hương Cảng. Như vậy, nói theo Tử Vi thì nó sinh năm Giáp Ngọ, nhưng sinh vào  tháng nào, ngày nào, giờ nào mà thụ nạn ở tuổi 24?  
 Hảo đi gặp một bạn mà cũng là thầy  Tử vi có tiếng trong trại nhờ xem cho sách một quẻ. Thầy nghe tuổi xong bèn bấm  mấy đốt ngón tay, miệng thầy lẩm bẩm những tiếng Tí, Ngọ, Mão, Dậu, tiếp theo  là  Thìn, Tuất, Sửu, Mùi  rồi phán: “  Tuổi Ngọ đi với Giáp,  mà có nhiều hung  tinh thủ mệnh lại có Mã, Khốc, Khách xung chiếu vào đại hạn hai mươi thì coi  chừng bị chết yểu. Nhưng nhờ Mệnh vô chính diệu, tuy bị nạn mà có 'quới  nhơn' phò hộ nên không hề gì."
 Rồi ông thầy hỏi: " Ủa, mà bồ  nhờ coi giùm cho ai vậy?" Hảo chỉ cười rồi biếu ông thầy một  bi thuốc lào hiệu 888, ướp sen, loại say, để cơm chiều xong thì thầy bỏ vào nõ điếu, mồi lửa mà kéo.   Đến đó thì Hảo rất mừng. Thầy nói  số nó không hề gì. Đó là một cuốn sách hiếm thấy. Cách trình bày rất gọn, không  nặng nề. Đặc biệt là Vương tiên sinh có bày ra cách tra chữ Hán theo tứ giác. Cái dễ sợ của hầu hết tự điển chữ  Hán là sự tra chữ mình muốn tìm. Có cách tra chữ theo giọng đọc. Phải học thuộc  vần bơ, phơ, mơ và phát âm cho thật đúng giọng mới có thể tra chữ theo lối này.  Có cách tra theo bộ. Phải biết chữ mình muốn tìm viết với bộ nào trong những bộ  như: thủy, thổ, hỏa, thảo, mộc, quyết, trảo, mịch, cung, hệ, trùng, nữ,  vân vân. Lại còn cách tra theo kiểu đếm nét.  Phải biết chữ đó viết với mấy nét!  Trong  chữ Hán, có chữ được viết với đến hơn ba mươi nét! Rủi gặp nạn máy in cũ, chữ  bị nhòe, nhìn vào thấy mỗi chữ là một đốm đen như con ruồi. Khi đó đối với ai  không thuộc dòng Thiên Tử có chút học vị thì tất cả mấy cách tra phổ thông trên  đây đều gây hãi hùng.     Có lẽ bản thân lúc nhỏ đã bị nhiều  phen hãi hùng như thế nên Vương tiên sinh mới nghĩ ra cách tra chữ theo tứ  giác.  Đọc lời chỉ dẫn ở mấy trang đầu của  sách thì thấy cách tra kiểu này gồm ba bước. Đầu tiên là tưởng tượng chữ nằm  trong một ô vuông. Kế đó là nhìn từng góc  - bắt đầu từ góc trên phía trái, tiếp theo là  góc trên bên mặt, rồi góc dưới bên mặt và sau cùng là góc dưới bên trái - thấy  có dấu gì trong mấy dấu như: ngang (1), sổ (2), một chấm (3), chữ thập (4), hai  ngang một sổ (5), hình vuông (6), góc cạnh vuông (7), mái nhà (8), một sổ hai  chấm hai bên (9). Nếu ở góc chữ không có dấu gì thì đánh cho con số 0. Bước  cuối là mở tự điển ra tìm nhóm bốn số đó. Thí dụ như tìm nhóm số 4543 thì thấy  có chữ Hán gồm bộ Nữ với chữ Đệ, đọc là Dì, nghĩa 1-  thê đích tỉ muội, tức là em gái của  vợ, nôm na là dì xấp nhỏ , nghĩa 2- mẫu thân đích  tỉ muội, tức là chị hay em gái của mẹ, hay là bà dì ruột. Nhìn nhóm số 4444  thì thấy chữ gồm bộ Nữ với chữ Chi, đọc là Kĩ, nghĩa mãi dâm đích phụ nữ,  nói trại ra là chị em ta.  Nhóm 4343 có  bộ Nữ với bộ Lương, đọc là Nương, nghĩa thiếu nữ nói nôm là cô gái, rồi  cho thí dụ nương tử quân là nữ quân nhân. Nhóm 9406 có bộ Tâm cạnh bộ  Cổ, đọc là Hỗ tức là nhờ cậy. Biết tính cách đa dụng này của  quyển tự điển rách nát mình đang có trong tay, Hảo nghĩ rằng người chủ quyển tự  điển sau khi bị mất nó ắt phải tiếc lắm.  Ông ta có thể là một cán bộ trong  ban quản lý trại. Khi được lệnh bài Hán vào năm Việt Nam có chiến tranh lưỡng  đầu thọ địch, một ở biên giới Tây Nam và một ở Việt Bắc thì người cán bộ đó  triệt để vứt sách quí của mình đi. Chủ nhân cũng có thể là một trong số anh em  tù cải tạo. Hảo linh cảm cho thuyết thứ hai là đúng.  Từ đó, Hảo nghĩ thêm rằng ông bạn  tù này là người rất yêu sách. Hảo tưởng tượng nỗi buồn của ông khi bị mất người  bạn đồng hành cao giá này. Rồi từ đó chàng nghĩ đến nỗi vui của ông khi biết có  người may mắn tóm được cuốn sách quí của ông bị thất lạc, tân trang tàm tạm, và  bảo quản an toàn.  Trong Thánh Kinh Công giáo có đoạn  nói về một người chủ chăn một hôm khám phá thấy có một con cừu bị lạc. Ông giữ  tất cả bầy lại một chỗ để đi tìm cho bằng được con bị thất lạc mang về. Con  người chỉ thật sự thương tiếc những gì không còn thuộc về mình nữa. Thế nhưng  trong hoàn cảnh như trên, Hảo không sao rao hỏi để tìm cho ra ai là người chủ  thật sự của cuốn sách. Một trong nhiều khuôn vàng thước ngọc ở trại tập trung  nào bao giờ cũng là tam không: không thấy, không nghe, không biết.
 Từ ngày xí được cuốn tự điển quí  giá đó Hảo xem mình như may mắn có được thầy Đồ ngay bên cạnh. Đọc sách thấy có  chữ nào không hiểu trọn nghĩa, Hảo bèn kín đáo hỏi thầy là xong. Điều thú vị là  thầy đồ của Hảo không mệt mỏi, không giận khi bị hỏi hoài, không câu nệ giờ  giấc.
 Một anh bạn Hảo có nhặt đâu được  mấy trang lẻ trong sách Thiên hồ! Đế hồ! (Trời ơi! Thượng Đế ơi!) của cụ Phan  Bội Châu viết thời sống lưu vong ở thành phố Thượng Hải bên Tàu.  Anh bạn này trước kia là một cử nhân Hán học.  Đọc mấy trang sách lượm được đó, thấy chữ nào quá mắc  mỏ thì anh hỏi thầy Đồ. Những câu trả lời của thầy thì thật là... đúng y  sách.  Cứ thế mà thầy đồ đã ở với Hảo hơn  mười năm. Chữ nghĩa thầy một bồ. Còn Hảo thì xem trước quên sau. Xem sau lại  quên trước. Tuổi già lú lẫn. Ai chẳng thế? Trong suốt thời gian nầy, Hảo  không  bao giờ nặng tay đối với cuốn sách  quí giá đó. Ngay chỗ để nó, Hảo cũng lựa một nơi cao ráo, không bị mưa hắt vào,  không lộ liễu khiến ai có thể nhìn thấy. Sau đó, Hảo nhờ anh bạn thân chỉ cho  cách đóng sách. Học cách đóng sách xong phải chờ đến dịp Tết ta, trại viên được  nghĩ lao động liền mấy ngày, được ăn cơm trắng mới dành một ít cơm đủ dán những  tờ sách lại với nhau. Khi hoàn thành sản phẩm thì Hảo lại còn cẩn thận tạo cho  sách cái bìa bằng một tấm giấy bao xi măng chàng nhặt được và để dành từ lâu  trước đó. Bên ngoài tờ bìa Hảo dùng bút bi viết rồi tô đậm mấy chữ  Nam Dược Thảo,  nghĩa là Sách Thuốc Nam.  Mỗi lần chuyển trại hay chuyển  buồng, cuốn tự điển này luôn đứng đầu trong danh sách những vật bất khả ly  thân. Khi đến nơi mới, việc đầu tiên là để nó vào nơi an toàn nhất. Xong mới  đến những thứ khác.  Ở địa phương đó, vào thời điểm đó,  người tù cải tạo luôn luôn bị động; không khi nào ở đâu luôn được nhiều ngày.  Ba tháng là cùng. Đến nơi mới chừng bằng thời gian như thế là bị chuyển đi nơi  khác. Việc chuyển trại đúng là cái việc làm hoài thành quen. Thế mà lần nào  chuyển trại thì lòng Hảo cũng thấy nao nao. Hảo có ba bao vải dùng cho việc di  chuyển. Một có quay đeo vai; cái bao này được may trong tù bằng một chiếc mền  cũ của anh bạn có dư nên tặng cho. Hai bao cói còn lại thì mỗi tay xách một cái  là xong.  Bao đeo vai chứa những thứ không  thể thiếu. Bao mang bên tay mặt chứa những thứ cần dùng hàng ngày. Bao bên tay  trái được dùng đựng những thứ ít quan trọng. Khi đang di chuyển mà bị đuối hơi  thì có thể vất nó trước tiên. Rủi bị kiệt sức thì vất luôn cái bên tay mặt. Cái  đeo trên vai bắt buộc phải giữ bằng mọi giá. Rồi cứ thế mà đi theo anh em.  Lần di chuyển đó, Hảo nhớ mình đã  cho thầy đồ vào cái bao đeo vai và buộc lại cẩn thận. Thời đó, người tù thường  được lệnh di chuyển ban đêm. Trời lại đổ xuống cho cơn mưa bụi từ sáng sớm, làm  đường thành lầy lội. Mang dép râu mà gặp phải sình thì chân đi một nơi, dép đi  một ngả. Gặp trường hợp này, cách tốt nhất là tháo dép ra, buộc chúng chung lại  với nhau rồi mang trên vai.  Hai bàn chân trần, ngập trong bùn.  Từng ngón chân bên này bấm chặt vào mặt đất cho vững  rồi mới lê chân bên kia. Mưa mang khí rét theo gió đêm thổi vi vu. Các  ngón tay Hảo ướt sũng, nhăn nheo teo túm. Cái nón vải đội trên đầu mọng nước.  Từ đó, nước rỉ ra, len xuống tóc thành từng dòng, bò  xuống cổ, qua lưng, rồi từ lưng xuống đùi mà hút hết thân nhiệt. Không  lâu sau thì tự nhiên cảm thấy run từ ruột gan, không sức nào kềm lại được. Hai  hàm răng cũng khua lặp cặp. Lắng tai nghe thì tứ bề chung quanh đều vang lên  những tiếng răng khua vào nhau không ngớt.
 Rời trại cũ khoảng tám giờ tối. Đến  trại mới năm giờ sáng hôm sau. Đi bộ mười tám cây số trong mưa thì mệt người bã  ra. Lúc đến nơi, áo quần ướt mem, người run vì rét. Trời còn tối. Vài ngọn đèn  dầu được thấp lên. Thấy thức ăn nhiều gấp hai, ba lần ngày thường. Có cả hủ  tiếu xào với một ít thịt heo. Toàn những thức ăn lâu ngày mới nhìn thấy bằng  mắt mà không bằng tưởng tượng. Bộ sấp thả tù tất à? Ăn chi nổi. Cán bộ mò đến  khuyên: " Cố mà ăn anh em nhé. Vì ngày mai....không có nhiều như thế  nữa."
 Thật vậy, người miền Bắc Xã hội Chủ  Nghĩa thời đó có điểm lạ. Đó là trước khi hay sau khi làm một công tác quan  trọng, như di chuyển, hành quân, học tập chẳng hạn, thì có bồi dưỡng. Tại sao  bồi dưỡng? Vì ngày thường trừ số ít những ai hưởng chế độ đặc táo thì mọi người  ai cũng bị đói ăn. Anh em thay bỏ quần áo ướt rồi mặc  quần áo khô vào, đi nhận thức ăn đề dành cho buổi sáng. Xong thì lo ổn định chỗ  ở.  Trước tiên Hảo mở bao đeo vai ra.  Khốn thay, móc cả đồ đạc trong đó ra mà không thấy thầy Đồ đâu cả! Nhớ lại từ  đầu, chàng chắc mình có để thầy vào cái bao ưu tiên mang lưng. Đề phòng sách có  thể bị ướt vì nước mưa, chàng nhớ đã để nó nằm giữa các quần áo kia mà. Tuổi  đời năm đó tuy cũng gọi là "tứ thập nhi bất  hoặc," nhưng trí nhớ làm gì mà bị suy  kém đến thế?  Mở tiếp túi bên tay mặt, cái túi  quan trọng thứ kế. Trớt huớt!  Mồ hôi Hảo  tuôn đầy mặt, tuôn ướt cả áo. Cái điều Hảo lo sợ nhất đã thành sự thật? Tay run  run  mở cái bao cuối cùng thì...y như gặp  phép lạ: thầy Đồ đang nằm tênh hênh trong đó. Hảo mừng quên cả mệt, chụp lấy  thầy đưa lên ngang tầm mắt nhìn cho thấy rõ đúng là thầy rồi bỏ ngay vào túi áo  chàng đang mặc cho chắc ăn xong mới lo những thứ khác. 
 Gần chục năm sau, một ít anh em  được tha về. Một số khác được đưa vào Nam tiếp tục bị giam giữ. Hảo và thầy Đồ  thuộc số người còn ở lại.
 Số người còn lại này ngày lại càng  ít thêm. Lý do thỉnh thoảng có vài anh già yếu được gọi tên tha về. Lúc đó Hảo  nghĩ rằng thầy đồ của Hảo còn một đức tính quí nữa là sự trung thành. Nó khiến  thầy lẽo đẽo theo từng bước chân Hảo, những bước chân  chỉ được rèn luyện để đạp lên chông gai mà đi. Đó là những bước chân đã hiện  sẵn đâu từ tiền kiếp mà không bao giờ Hảo dám phủ nhận hay chối từ.  Trong số tù nhân cải tạo ở cùng  trại với Hảo lúc bấy giờ có thượng tọa Thích Thanh Long. Tính ít nói, nhưng mỗi  lời thầy là một điều tâm niệm, giúp nhiều anh em, trong đó có Hảo, cảm thấy  được bình yên trong chốn lao lung triền miên năm này qua năm nọ. Thầy thường  khuyên anh em Hảo nên bình tâm chấp nhận mọi thứ dù tốt hay không tốt đã xảy ra  trên cuộc đời này. Chấp nhận mà không lên tiếng để biết đâu là cội nguồn của  đau khổ, chấp nhận với đành tâm để không nổi loạn chống lại bản thân. Thầy nói  với một nhóm anh em Hảo:" Không phải ra khỏi nơi đây là dễ. Và cũng không  phải được vào đây là dễ. Phải có cái duyên đi liền với cái nghiệp."  Ôi cái chữ phải mà thầy dùng nó nặng  ký sao đâu! Và từ đó anh em nhờ cái chữ phải này mà nhìn cuộc sống trong  trại giam với con mắt trầm tư về bản thân mình mà không còn giận hờn đời như  trước. Nghĩa là khi bị ngả thì đừng nhìn nơi mình bị ngả mà nên nhìn nơi mình  bị trợt chân. Sau rồi lệnh phóng thích được ban  ra. Cái vui này kèm theo nỗi lo to lớn cho Hảo:   trong giấy ra trại không có tên thầy Đồ.  Theo luật ban hành cho tất cả trại  viên thì người được phóng thích không phép mang một thứ gì ra khỏi trại, ngoài  quần áo và thức ăn đi đường do trại cấp phát. Tài liệu giấy tờ, văn bản, sách  vở thư từ phải được thiêu hủy tất. Mọi vi phạm  có nghĩa là lệnh phóng thích bị hủy bỏ, và người tù liên hệ sẽ coi như mình  không còn có dịp may thứ hai về đoàn tụ với gia đình. Còn hai ngày nữa là xuất trại lần  cuối. Thời gian lại qua mau. Cán bộ nhắc lại nhiều lần rằng ngày rời trại, tất  cả hành trang cá nhân đều bị khám lần chót tại cổng chính.  Trước kia có một ông bạn được tha  trên một danh sách chỉ có độc tên ông. Vài bạn thân nhờ ông mang chui giùm mấy lá thư. Khi ông bạn xuất trại thì chẳng may cán  bộ khám thấy đồ cấm, nên giữ ông lại đến mấy năm trời rồi chuyển đi, được tha  về nhà hay bị giam ở trại khác, không ai biết. Đàng nầy Hảo lại mang không phải  thư chui mà là cả một cuốn sách chi chít những hàng chữ trong ngôn ngữ của lân  bang phía Bắc mà lúc bấy giờ không còn bạn hữu, nên phải bị nghi là hoạt động  tình báo cho địch. Với tội này, bản án kế tiếp sẽ là tử hình.  Buổi sáng ngày ra trại thấy có  chừng năm sáu chục phóng viên báo chí đến chứng kiến. Tất cả họ thuộc các nước  Tây phương —không  một ai thuộc phe xã  hội chủ nghĩa. Họ ào vào bên trong trại, được phép tiếp xúc với tù nhân bằng  nhiều thứ tiếng khác nhau. Ai biết tiếng gì nói thứ tiếng đó.  Một cặp vợ chồng phóng viên người Pháp đến  chào Hảo. Người chồng nói tiếng Việt rành rẽ:  “ Chúng tôi ở Bang Kok, làm việc cho tuần báo Paris Match của Pháp xin hỏi một  câu. "Gia đình ông ở đâu trước khi ông đi vào trại ?" Hảo trả lời:" Sài Gòn." Ông ta vừa cười vừa lắc lắc đầu,  nói: "Tức là Thành Phố Hồ Chí Minh. Cái tên 5 chữ đó dài và khó đọc quá  hả? "Hảo nói:” Chúng tôi quen với cái  tên Saigon. Tưởng ông cũng thế. "
 Rồi Hảo hỏi:" Ông học tiếng  Việt ở đâu mà nói rành quá vậy?" Trả lời:" Tôi và bà … xã học  tiếng Việt ở trường bên Pháp. Học theo cách ráp các vần A, B, C lại đàng hoàng  mà. Chúng tôi nói được ba giọng Bắc, Trung và Nam." Rồi tiếp:" Ông có biết ông và  các bạn ông ra trại lần này rồi không được ở nhà lâu hay không?" Hảo hỏi lại: " Ông muốn nói  chúng tôi sẽ bị bắt giam lại sao?" Bà vợ ông ta nói thay:" Không  đâu. Người Mỹ mua các ông cả rồi. Các ông sẽ bị phóng trục, tức là phóng thích  để rồi bị trục xuất. Chúng tôi làm nghề báo nên biết cả." Chuyện nghe lạ tai, nhưng phản ứng  tự nhiên theo chuẩn thức trong tù, chàng chuyển sang đề tài khác, hỏi:"  Sau việc này thì ông và bà đi đâu nữa?" Bà trả lời: " Vào Nam." Hảo hỏi:" Bằng tàu bay?" Ông chồng cười lớn tiếng,  nói:" Giỡn mặt hoài, anh Hai? Chúng tôi đi theo chuyến tàu hỏa đưa quí ông  đi Nam. Trước kia, mấy lần mua vé tàu bay, nhưng khi lên thì thấy ghế mình đã  có người ngồi rồi." Đến lúc ra trại lần chót, Hảo xách  một bao mang vai và một túi nhỏ theo anh em sắp hàng  hướng ra cổng chính. Trong túi vải nhỏ đó có cuốn tự điển đang nằm chờ  cơn thử thách cuối cùng. Nhưng Hảo đã hứa không bỏ thầy Đồ, và từ lâu chàng đã  sống với lời hứa đó. Hảo sợ trong một lúc chỉ biết lo cho thân mình mà bỏ thầy,  về sau khi luống tuổi mà nhìn lại mình, chàng sẽ bị luôn dằn dật nội tâm. Mặc  dù việc riêng, chỉ có Hảo với thầy Đồ biết, nhưng sao bỏ lại cho đành?  Lúc đó, thật tình mà nói, Hảo quí thầy hơn  thức ăn hay tiền bạc.  Lúc đến phiên Hảo sấp mở túi hành  lý của mình ra cho cán bộ trại khám thì có nhiều phóng viên đứng gần bên, đưa  máy phim lên quay. Đèn chớp lóe lên từ bốn phía. Người  trước nhích lên một bước. Hảo cũng nhích lên theo một bước.  Hảo chỉ đưa bao mang vai lên mặt  bàn rồi lẹ tay mở nó ra. Túi con đựng cuốn sách thì bỏ nằm ở mặt đất. Nếu tình  thế căng quá, Hảo sẽ đứt ruột dùng chân đẩy nhẹ chiếc túi vải đựng quyển sách  sang một bên là xong. Người cán bộ một mắt nhìn sơ mớ đồ  đạc của Hảo, một mắt liếc về phía phóng viên báo chí đang dương máy lên chụp.  Rồi anh ta nhìn Hảo, nheo một mắt, miệng tươi cười rồi khoát tay cho đi.
 Sau khi ra bên ngoài, sấp được về  nhà với gia đình, Hảo quay nhìn trại giam lần cuối. Bên trong còn lại khá nhiều  anh em giờ đó không biết đang nghĩ gì về người, về mình.  Hơn mười năm lận đận với nhau, cùng  được nuôi bằng một loại thức ăn vật chất, cùng mang một nỗi suy tư, cùng thở  một bầu không khí, cùng có một niềm hãnh diện đối với lương tâm chính mình,  cùng biết nhau, biết từng tên, biết rừng tâm tính. Lúc chia tay thấy ruột gan  mình như bị dao cắt dọc ngang. Quê hương, đất nước và con người, cả ba ràng rịt  với nhau thành một tình yêu ngang với lòng ái quốc, nên đâu dễ bỏ nước mà đi.  Ôi quê hương mến yêu.  Bao nhiêu xương  máu người dân đã bị hi sinh cho cuộc chiến tương tàn trong hàng bao nhiêu năm  mà con người vẫn chưa được yên lành. Còn phải trả thêm gì nữa cho xong món nợ  dự phần làm nước mất nhà tan? 
 Hơn chục xe ca đưa hơn hai trăm anh em Hảo ra  ga Phủ Lý vào buổi chiều. Lên toa xe ngồi đến nửa đêm thì tàu chuyển bánh.
 Trên đường  xuôi Nam chuyến cuối năm, khi ngang qua đèo Ngang, người trưởng đoàn tàu, một  cựu nhân viên hỏa xa miền Nam trước kia, có nhã ý  ngừng tàu lại gần mươi phút cho anh em Hảo...ngắm cảnh bà Huyện Thanh  Quan tả trong bài thơ Qua Đèo Ngang bà viết từ khoảng hai thế kỷ trước.  Đoàn tàu nằm vắt ngang đèo như một  con sâu khổng lồ.  Lúc bấy giờ vào khoảng ba giờ chiều. Nắng vàng hoe.  Cái thứ nắng này từ đâu ra mà trong như thủy tinh, nhẹ nhàng và đẹp lạ lùng.  Trên lưng chừng đồi hai bên đèo bỗng xuất hiện nhiều bó củi khá to đang từ từ  bò xuống. Nhìn kỹ thấy dưới mỗi bó củi có bà cụ già hay một đứa bé đang gồng  mình lên mà đi! Quần áo ai ai cũng vá đùm vá đụp. Nhìn cảnh mà sao lòng tự  nhiên đau nhói. Có thời Hảo và anh em cũng phải lên núi lấy củi bó thành những  bó to như thế rồi vác xuống chân núi để mang về trại nên biết rõ cái khổ cực  của công việc nặng nhọc đó. Nay thì anh em và Hảo có thể sẽ chuyển hướng, về  nhà kiếm sống bằng một nghề khác. Nhưng những bà cụ già và những chú bé con kia  thì sẽ phải tiếp tục gồng vai vác củi như thế cho đến bao giờ! Khi những người  vác củi đi gần đoàn tàu, nhìn dung nhan của các phụ nữ nhăn nheo đậm nét, và  của các cậu thiếu niên cũng bắt đầu chạy chỉ dọc ngang, nhiều anh em quay mặt.  Người trưởng đoàn tàu nói:"  Đây là chuyến tàu xuyên Việt cuối cùng trong năm nên không sợ xe khác chạy  ngược tuyến này. Không có gì mừng các chú các bác. Chỉ có mấy phút phù du ngắm  cảnh, nhờ qua nữ sĩ Thanh Quan, đã vào văn học của ta mà không cứ phải hễ là người Việt Nam thì là có thể được nhìn.” Ôi tâm tình và tấm lòng người Việt  Nam còn biết thế nào là tử tế!
 
 Cái đẹp của đèo Ngang nói mấy cũng  không cùng. Cái đẹp hoang tàn vẫn là cái đẹp thường thấy ở của quê hương  ta.  Hơn ba mươi năm trước còn là chú bé  ngồi ghế nhà trường ê a đọc bài thơ Qua Đèo Ngang trong sách quốc văn giáo khoa  thư.  Ai ngờ khi tóc bắt đầu hoa râm thì  được tận mắt nhìn cảnh đó. Những người bạn tù đồng hành trong thập dư niên cũng  đang lặng người mà nhìn không chớp mắt. Ngày xưa Nam tiến, nơi đây còn in dấu  chân tổ tiên. Hồn phách tiền nhân như còn phảng phất khấp nơi, còn cảm hoài đối  với muôn đời hậu thế.
 
 Anh em Hảo trở về đời sống thường  dân với niềm hãnh diện dâng cao và một tâm hồn hoàn toàn lắng xuống. Hãnh diện  vì biết rõ mình là ai và đã học được chữ nhẫn nhiệm mầu. Qua bao năm tháng sống  trong gian nan, chàng đã hiểu phần nào ý nghĩa thâm diệu và sự cần thiết của  khổ đau cũng như thấy được sự thinh lặng của tâm thức là bước đầu của giải  thoát.
 Sau khi về nhà, ổn định cuộc sống  hàng ngày, Hảo sắp quyển tự điển vào chung với những cuốn sách quí trong gia  đình Hảo. Ngày ngày Hảo nhìn cuốn tự điển đó với nỗi vui riêng. Nó là duy nhất  trong loại đó. Nó là thầy dạy của Hảo nhiều năm. Nó đã hủ hỉ ở với Hảo trong  khá nhiều năm.  Hảo đã rùng mình khi qua  cổng chính lúc ra trại lần cuối.  Hảo  Nghĩ cuốn sách cũng cảm thấy nỗi rùng mình đó.  Từ đó Hảo có lời nguyện khác: xin  cho mình được gặp người chủ đích danh của cuốn tự điển đó để hoàn nó lại. Hảo  quí những sách của mình bao nhiêu thì Hảo tin rằng ông ta cũng quí sách của ông  ta bấy nhiêu.  Hảo ưng được nhìn thấy nụ  cười của người chủ đó khi nhìn lại cuốn sách của ông ta bị thất lạc từ hàng  nhiều chục năm. Nhưng ông ta là ai? Nếu còn sống thì ông ta  ít ra tuổi cũng...nhi nhỉ thuận hay cổ lai hi  rồi. Lâu quá mà. Trái đất hình tròn nhưng trái đất so với con người cũng thật  bao la. Đi tìm người đó cũng khó như đi tìm quê hương của vợ Từ Thức.
 Ngày cất bước đi định cư, Hảo mang  ông Đồ theo, nhưng không cho nó vào va li mà lại bỏ nó trong túi áo gió mang  luôn trên người. Máy bay đưa Hảo đi hơn nửa vòng trái đất. Lời nguyện còn đó mà  hi vọng thì có mong manh. Nhưng ở đời hễ có chí thì  nên, Hảo không bao giờ thất vọng. Tại Mỹ, phòng Hảo ở có một giá sách.  Nơi đây những sách thủ đắc sau này được sấp thứ tự chung với thầy Đồ. Toàn  những cuốn in ấn rất đẹp, chắc chắn. Nhưng cưng thì Hảo vẫn cưng thầy đồ hơn.
 Đứng chung với các sách thuộc thế  hệ trẻ sau nầy trông thầy hom hem quá. Hảo để thầy đứng ở hàng đầu trên kệ  sách, chỗ thật trang trọng lại gần ngọn đèn, nhìn vào  nhận ra thầy ngay. Mỗi ngày nhìn thầy, Hảo đều nói thầm xin thầy xui  khiến cho Hảo gặp được người chủ cũ. Con chó còn biết ai thương ai ghét nó.  Huống hồ gì là một quyển sách đầy đặc chữ nghĩa thánh hiền. Một năm, hai năm, ba năm, bốn năm,  năm năm rồi qua năm thứ sáu.  Có lúc mềm  lòng Hảo muốn đổi ý. Sách nầy dùng quen, tìm chữ nhanh. Lời mình nguyện thì có  ai nghe đâu. Thôi thì giữ lấy mà dùng. Dễ quá. Nhưng  nếu làm thế, mỗi ngày nhìn mình trong gương lúc rửa mặt thì khó cho nhau lắm.  Năm thứ sáu sấp hết mà người chủ đó vẫn biệt mù sơn dã.   Một buổi chiều điện thoại nhà Hảo reo. Cầm ống nghe  lên thì có người nói: " A lô! Có phải nhà anh Hảo không?" " Vâng, tôi là Hảo đây. Xin  lỗi tôi đang được tiếp truyện với ai?"" À, tôi là Thanh trước cùng  anh ở Nam Hà đó. Nhớ ra chưa? Nhớ những ngày anh em mình ra hiện trường lao  động ngay chân đồi của trại; buổi trưa nghỉ giải lao, ngồi núp nắng dưới mấy  bụi chuối, anh em mình bắt chuồn chuồn, xong thả nó  bay rồi mình cười với nhau hay không?
 Lời ông bạn lôi Hảo trở lại thời còn trong trại cải  tạo, anh em sống với nhau hồn nhiên như trẻ con thời thơ ấu ra vườn bắt bướm,  hái hoa, vui cười với nhau suốt buổi. Rồi có hôm toàn đội lao động lên rừng  theo kế hoạch “ém quân” theo nhu cầu của trại, anh em còn tạo ra cảnh ngày xưa  đi cắm trại bên bờ suối; đi câu cá, nấu nướng ăn uống với nhau; và quần áo anh  nào cũng vá đùm vá đụp. Rồi ông Thành tiếp: “Thứ  Bảy này có giáo sư Lê Hữu Mục từ Canada sang  nói chuyện về tiếng Việt ở phòng họp báo Người Việt. Anh có thích đi nghe thì  sang đây cùng đi với tôi." Tôi đang tìm hiểu về nguồn gốc  tiếng Việt. Nghe ông Thanh nói thế, mừng quá, tôi trả lời: "Xin anh cho  tôi số điện thoại và địa chỉ của nhà anh. Tôi đến đón anh cùng đi." Anh Thanh và Hảo từng ở tù cải tạo  chung với nhau hơn mười năm. Cả hai nằm trong số tù được tha về cùng ngày,  nhưng mỗi người về hai nơi cách nhau hàng trăm cây số. Sau đó thì Hảo không  biết anh sang Mỹ từ bao giờ, ở đâu và cũng không hiểu làm thế nào anh biết số  điện thoại của Hảo mà anh gọi đúng phóc. Về sau mới biết anh là cái hộp thư.  Khi cần liên lạc với bạn tù  cũ nào mà  không biết số điện thoại, Hảo hỏi anh là có ngay. Ngày đi nghe giáo sư Mục nói  chuyện, Hảo đến nhà anh Thanh sớm hơn một tiếng đồng hồ; mục đích hỏi tin tức  về các anh em khác và nhắc chuyện cũ năm xưa.  Gặp Hảo, anh nói:" Tôi thích  tiếng Việt Nam lắm. Ai học tiếng gốc Romane như Anh, Pháp, Tây, Bồ thì phải  biết tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. Còn ai học tiếng Việt, Nhật, Đại Hàn thì  nên học tiếng Hán. Mỗi chữ Hán mà một bức tranh, nhìn người ra người, chim ra  chim, ngựa ra ngựa. Hồi bắt đầu đi tù cải tạo, tôi kêu nhà tôi gửi cho tôi một  quyển tự điển Hán Hán. Tên cán bộ quản giáo nó thấy được bèn tịch thu sách của  tôi. Tôi xin chuộc bằng tiền nó cũng không ưng, nói đốt rồi vứt ra bãi  rác." Lời anh Thanh nói, gây một cảm giác  ớn lạnh trong xương sống Hảo.  Hảo hỏi: " Sách gì mà quí  thế." Anh trả lời: “Tự điển của Vương Vân Ngũ, tôi  mua ở Hong Kong năm 1955, tra chữ theo tứ giác, rất tiện lợi. Mất rồi tiếc quá.  Sang đây tôi đỏ mắt tìm loại sách đó ở các hiệu sách ở đây mà chưa thấy." Sách tự điển của Hảo đang có cũng  do tác giả Vương Vân Ngũ soạn. Lời nguyện sắp được thành rồi chăng? Hảo hỏi tiếp:" Sách anh to cỡ  nào? Có dấu gì đặc biệt không? Anh Thanh nói: " To bằng bàn  tay, dày gần tất tây. Ở trang nào có hai số cuối cùng năm sinh của tôi tôi đều  ký tên." Quyển tự điển của Hảo đang có cũng  có nhiều nét chữ viết tay bên trong. Như thế là có đến hơn chín phần mười là Hảo đang đối diện với ông chủ của "Thầy Đồ." Tim chàng nện thình  thình trong lồng ngực.  Chàng hỏi:" Nếu bây giờ có ai  nói đang có quyển tự điển của anh trong tay thì anh nghĩ sao?" Anh nói ngay:" Làm gì có  chuyện đó. Tên cán bộ đó nói nó đốt sách tôi rồi, và đến nay là đã hơn hai mươi  năm. Họa chăng chỉ có phép lạ."Hảo lặng thinh.
 Sau khi nghe giáo sư Mục nói chuyện  xong, Hảo đưa anh Thanh về lại nhà anh ở đường Magnolia, Garden Grove, rồi  phóng xe chạy về nhà mình tận trên Los Angeles.   Vào nhà, chàng đến giá sách, cầm  “Thầy Đồ” lên  thì ở mỗi trang có hai số  cuối là 22, chàng thấy có chữ ký bắt đầu bằng chữ T. Hảo liền quay số gọi anh  Thanh xin hẹn ngày cho Châu Hoàn Hợp Phố. Anh cho ngay cái hẹn ngày hôm sau lúc  8 giờ sáng. Trong đêm đó Hảo nghĩ đến lúc phải  thật sự chia tay cùng ông Đồ mà cảm thấy buồn buồn, buồn nhưng không tiếc.  Chàng đã chứng minh được rằng kiên trì cầu nguyện với thiện tâm thì có ngày lời  nguyện sẽ thành. Từ lâu chàng tin như vậy và đó là lần chàng thấy được niềm tin  chàng ký thác vào quyển sách là đúng đắn. Nghĩa là phải tin mới có thấy. Và có  thấy mới càng thêm tin.  Hôm sau chàng đến đúng hẹn để trao  quyển tự điển về cho cố chủ.  Nhìn lại quyển sách của mình sau  hơn hai mươi năm bị thất lạc, anh bạn mừng đến chảy nước mắt.  Anh nhờ cậu con mang máy ảnh ra chụp hình kỷ  niệm ngày về của thầy Đồ.  Anh nói:" Nhìn lại quyển tự  điển của tôi và biết nó đã từng ở trong tay anh là tôi mãn nguyện lắm. Anh quen  dùng thì xin anh tiếp tục giữ lấy mà dùng." Hảo phải nói ngay: " Không  được. Tôi đã hứa, và hàng ngày đã cầu xin cho lời hứa đó được viên thành. Tôi  đâu làm ngược lại được điều tôi đã xin. Của Ceasar thì phải được trả về cho  Ceasar. Thật sự mà nói, tôi chỉ muốn nhìn thấy nụ cười của anh sau khi được lại  quyển tự điển mà anh hằng yêu quí. Sau này khi đọc sách mà gặp chữ nào khó hiểu  thì tôi xin được sang nhờ Thầy chỉ bảo. Được thế là quí lắm rồi." Rồi chỉ vài tuần sau đó, giáo sư Lê  Phụng, ông bạn của Hảo, từ Canada sang chơi. Nghe qua câu chuyện Châu Hoàn Hợp  Phố trên đây, ông nói : “ Moa có   nhiều tự điển chữ Hán . Từ Hải   thì moa cũng có đủ bộ, nhưng chưa hề nghe loại sách 'Tứ giác' đó.”  Hảo đưa ông bạn giáo sư  sang nhà anh Thành, mang "Thầy Đồ"  ra giới thiệu với giáo sư. Ông bạn mở sách ra xem vài trang rồi nói đó là loại  sách quí,  ông chưa hề thấy! Vài hôm sau  ông về lại nhà bên Canada. Đúng 2 tuần lễ sau, Hảo nhận một  gói quà gửi từ Canada. Mở ra thấy đó là một quyển tự điển Tứ Giác mới toanh,  của Vương Vân Ngũ tái bản, trong đó có đúng 9990 chữ cái. Trong bức thư kèm theo, giáo sư  viết: “ Moa về nhà không quên được chuyện Thầy Đồ của toa. Câu  chuyện đó chứng minh đức tin có thể dời non lấp biển. Cái may của quí toa là vào tù để thấy được đức tin và sự bình yên trong tâm hồn sau khi được có dịp  trả phần nào cho cái nghiệp của mỗi người. Moa kể chuyện này cho một  ông bàn già của moa nghe. Ông ta nói đó là chuyện ngẫu nhiên. Moa hỏi:” Ngẫu nhiên mà với lời cầu nguyện liên tục, mỗi ngày trong sáu , bảy năm  trời thì sao gọi là ngẫu nhiên cho được. Phải gọi là hiển nhiên chứ. Ông ta làm  thinh. Hôm qua moa đi lục các hiệu  sách một lần nữa thì tình cờ gặp hai Thầy còn sót lại trong một hiệu sách lớn  nhất ở đây. Moa mời cả hai về nhà, một cho toa vì toa đã  trả sách về cho ông chủ cũ, và một cho moa.” Câu chuyện Châu Hoàn Hợp Phố trên  đây không là duy nhất. Giữa năm 2007, một hôm có anh bạn  báo tin vắn tắt:” Này, tôi nghe trên báo hàng ngày và hàng tuần có người nhắn  tin tháng Tư năm 1975 ông ta có nhặt được một phong bì đựng hồ sơ cá nhân của  anh, gồm nhiều giấy tờ cùng hình ảnh quan trọng. Anh nên liên lạc số điện thoại  (714)... hay (626)... xin nhận lại. Họ nói cam đoan không làm khó dễ. Nhanh đi,  người ta đang chờ đó.”  Từ lâu lắm rồi, Hảo quen xem mọi  thứ trên đời, cả xác thân mình, cũng là hư ảo. Hồ sơ cá nhân để làm gì khi tuổi  hạc đã lấp ló ngoài hiên. Tin trên được nghe qua rồi bỏ. Sang năm 2008, lại có người báo y  chang tin như thế. Hảo cho đó là chuyện hoang đường.  Đầu năm 2009, có anh bạn khác cũng  báo tin y như trên, nhưng rõ ràng hơn là “Đài phát thanh ngày... loan tin đang  giữ toàn bộ hồ sơ cá nhân của anh trong quân ngũ trước năm 1975. Yêu cầu ai  biết anh còn sống, nay ở đâu thì thông báo giùm kẻo  tội nghiệp. Điện thoại liên lạc số (714)... Nhanh lên nhé. Đời không có  hay người may mắn như anh.” Rồi cuối tháng Ba cùng năm, ba ông  bạn khác gọi liên tiếp báo tin trên, lời lẽ mạnh bạo hơn. Một ông nói:” Tin đài  phát thanh... nói hồ sơ, giấy tờ quan trọng, hình ảnh gia đình của anh trước  75, nay có người còn giữ. Tụi bạn nói có báo tin đó cho anh mà anh … mũ ni che tai.  Người ta đã nghĩ đến anh, mặc dù chưa biết anh là ai, và đã bỏ công giữ hồ sơ  đó trong trong 34 nằm dài. Tài liệu đó lâu nay như đứa con mồ côi và bị thất  lạc. Anh đã tạo nó ra mà. Khùng in ít thôi, để phần cho tụi này khùng nữa chứ.” Thế là “Chúng khẩu đồng từ, ông sư  cũng chết,” lời anh em nói quá chí tình. Hảo  nhận thấy lỗi của mình to hơn quả núi, nên liên lạc các số điện thoại xin nhận  toàn bộ giấy tờ đó. Khi nhìn lại những tờ giấy, những ảnh nay đã trổ màu thời  gian, Hảo ứa nước mắt. Hằng bao lâu qua chúng vẫn nằm một chỗ, yên lặng chờ  chàng. Người trao hồ sơ cho Hảo, nói:” Tôi  chỉ là người trung gian mà thôi. Ông liên lạc ông Du.., ở số điện thoại (626)à  này, để biết rõ hơn. Hảo cũng cần gặp người này để nói cảm nghĩ của mình, nhất  là lời cám ơn lòng tốt của ông.  Trên đường dây điện thoại với người  từng giữ những hồ sơ đó, Hảo nghe tiếng người đàn ông:” Trời ơi! Trời ơi! Ông  đó hả? Tôi là Du.. Trong 34 năm, tôi tìm các cách để trao lại toàn bộ hồ sơ đó  cho ông. Tốn bao nhiêu tiền tôi không tính. Số là trên đường di tản tháng Tư  năm 75, khi đến Thái Lan, tôi tình cờ nhặt được trọn bộ tài liệu cá nhân của  ông. Tất cả đoạn đường 20 năm chiến binh của ông nằm ở đó. Nó cho thấy vinh  quang lắm lúc mà gian khổ cũng không vừa gì, mặt nào cũng có cả, trong nước  cũng như ngoài nước. Sao đành bỏ qua cái quá khứ đó. Khi nghe một anh lính nói  lý do ông phải ở lại với đơn vị, tôi bỗng nghĩ bằng mọi giá, tôi phải giữ hồ sơ  đó mong có ngày gặp ông để trao lại, nếu không thì trao cho thân nhân của ông  cũng được. Đó là tâm nguyện của tôi.” Ông Du... tiếp :" Mai này tôi  phải đi xa có việc cần. Khi trở về tôi xin được gặp ông sau, được không? Tôi có  số điện thoại của ông trong máy của tôi rồi." Việc gì cũng phải có đầu, có đuôi,  Hảo hỏi:” Ông Du.. có biết ai là người cuối cùng có trong tay các hồ sơ đó hay  không?” Ông Du..:" Tôi hỏi những người  có mặt tại Thái Lan lúc đó thì có người nói chính anh tài xế của ông giữ. Khi  nghe ông Minh Cồ tuyên bố buông súng, thấy mọi người đều bỏ chạy, anh ta tưởng  ông cũng bỏ chạy mà chưa kịp về phòng lấy gì mang theo nên anh ta xẹt qua nhà  ông, lục trong tủ không thấy gì ngoài mớ giấy tờ đó. Thế là anh ta chụp lấy,  mang xuống tàu trước cho ông. Khi khi tàu tháo dây, trên bờ còn quá đông người  mà không thấy ông, nghĩ rằng ông bị chúng “bùm” rồi nên  anh ta bèn nhảy lên bờ, chạy đi tìm ông, rồi  không thấy trở lại nữa.”  Người lính ông Du.. nói đó đã theo  Hảo trong hơn chục năm trời.  Về sau, khi biết Hảo ra khỏi trại  tập trung, anh có tìm Hảo, mời về nhà anh, một hiệu bán phở ở gần Lăng Cha Cả  trước năm 1975. Kinh doanh làm ăn phát đạt, con cái đứa đi học, đứa có nghề  nghiệp sống được. Nhưng anh không hề nói cho Hảo biết gì về chuyện buổi chiều  ngày 30 tháng Tư năm đó... Thì ra ông bà tổ tiên người Việt  nói rất đúng. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân. Của cho đi không bao giờ mất,  và người giỏi tất có người giỏi hơn. Khi nuôi dưỡng Thầy đồ trong 28 năm, Hảo  tưởng mình đã là người kiên nhẫn có hạng. Nhưng ông Du.. Đã kiên trì giữ túi hồ  sơ giấy tờ của chàng trong gần ba con giáp, mà còn tốn tiền đăng báo thuê đài  đi tìm người trong bao nhiêu năm trời.  Tìm đâu ra được tấm lòng tử tế, vô  vị lợi, và nhân hậu như thế!  Cũng sao tìm đâu ra người trong cơn  nguy biến, đã nhảy xuống tàu để di tản được rồi mà còn nhảy lên như thế; chuyện  nghe mà không khỏi bồi hồi suy nghĩ! Thủy Thủ |