SỐ 43 - THÁNG 7 NĂM 2009

 

Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam (Kỳ 30)     

Hoàng Thiếu Khanh

Độ Linh Giang

Bình sa tận xứ thủy sinh phù
Hạo hạo yên ba cổ độ thu
Nhất vọng tân nhai thông cự hải
Lịch triều cương giới tại kinh lưu
Tam quân cự bích phi hoàng diệp
Bách chiến tàn hài ngọa lục vu
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị
Táp niên tiền thị ngã đồng châu

Linh giang tức là sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, xưa là ranh giới chia Bắc và Nam Việt Nam.  
Cựu bích: lũy cũ, tức Lũy Thầy.

(Qua sông Gianh
Cuối bãi cát trời nước bồng bềnh
Khói sóng mênh mang thu soi bóng bến xưa
Từ bến nước nhìn xuyên qua biển lớn
Biên giới những triều đại trước được phân chia giữa dòng sông
Lá vàng bay trên lũy lớn của ba quân
Xương cốt trăm trận nằm phơi bãi cỏ xanh
Dân địa phương hướng về Bắc chớ nêm ghen ghét
Nhiếu năm về trước, ta vốn dân cùng xứ )

Qua Sông Gianh

Cuối bãi cát bằng nước mênh  mông
Bến xưa khói sóng thu mông lung
Nhìn ra biển lớn từ bến nước
Biên giới mọi thời vẽ giữa sông
Trên lũy lá bay vàng lác đác
Bên bờ xương rải xanh trùng trùng
Thổ dân lên Bắc đừng ganh ghét
Thủa trước bọn mình vốn ở chung
( HTK)

Cuối bãi bình sa nước lẫn trời
Mênh mang bến cũ bóng thu rơi
Bến liền mặt bể xa tăm tắp
Cõi lạnh lòng sông đã mấy đời
Lũy cổ ba quan tầng lá rụng
Bãi hoang trăm dặm đống xương vùi
Dân quê bờ Bắc đừng e ngại
Ba chục năm qua sống một nơi

                                    Hoàng Duy Từ ( Ấn bản 1978)

Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tử Nguyên

Nhất dạ Tây phong đáo hải mi
Đồng nguyên giao nghị thượng y y
Đại canh hữu thiệt sinh thường túc
Khứ quốc hà tâm lão bất qui
Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh
Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi
Lâm giang vị cảm đề Anh Vũ
Hoàn hữu trung nguyên nhất đại thi

( Họa bài gửi ông Ngô Tử Nguyên ở Thanh Oai

Một đêm kia, gió Tây thổi tới bờ biển
Bạn đồng học xưa nay vẫn y nguyên như vậy
Anh dùng lưỡi để thay cày sinh sống qua ngày
Tôi ở xa quê lòng nào già không về
Ngày ngày bệnh tiêu khát của Tư Mã Tương Như càng tăng trong tôi
Đêm nằm mơ, hồn về nhập vào thơ Đỗ Thiếu Lăng
Qua sông chưa cảm được để làm thơ bãi Anh Vũ
Lại có nhà thơ lớn ở Trung nguyên )

Gió Tây đêm nọ đến bờ xa
Tình bạn đồng năm vẫn vậy mà
Uốn  lưỡi anh dùng mà sinh sống
Xa quê tôi lòng cũng muốn về
Ngày ngày nghe nặng Tương Như bênh
Đêm mộng hồn về thơ Thiếu Lăng
Qua bến ngại làm thơ Anh Vũ
Trung nguyên còn có một nhà thơ
HTK

Thanh Oai là một huyện thuộc tỉnh Hà Đông, quê của Ngô Tử Nguyên ( tên hiệu)
Đại canh hữu thiệt: Cày có lưỡi. Đây muốn nó đi dạy học( dung lời nói) đề sinh sống
Tiêu khát: Bệnh đi tiểu nhiều và uống nước nhiều giống như tiểu đường. Tư Mã Tương như có bệnh này
Thiếu Lăng là tên hiệu của Đỗ Phủ, một nhà thơ lớn đời Đường
Anh Vũ: tên một bãi cồn giữa sông Trường Giang ở Tây Nam thành phố Vũ Cương.
Thôi Hiệu trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu có viết “Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
(Cỏ thơm xao xác bãi cồn Anh Vũ). Lý Bạch sau đó không dám đề thơ vì thấy thơ Thôi Hiệu treo ở trên đầu khi ông viết:
Đình tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
( Trước đền có cảnh đẹp nhưng không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu đang treo ở trên đầu)
Đây muốn nói vì nể thi sĩ nổi tiếng khác mà chẳng dám làm thơ đối đáp.
Trong bài này Nguyễn Du không đề cập đến bái thơ nguyên xướng.

Đại tác cửu thú tư quy

Quan ngoại thu phong tống địch xuy
Ban Siêu đâu bạch vị thành qui
Thập niên hứa quốc quân ân trọng
Thiên lý ly gia lữ mộng trì
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ

( Làm thay người lính thú đi lâu không về

Ngoài ải, gió thu cuốn bay tiếng tiêu đi xa
Ban Siêu bạc đầu mà vẫn chưa về quê
Mười năm hiến thân cho nước vì ơn vua nặng
Nhìn dặm xa nhà giấc mơ lữ thứ còn dài
Vinh hoa chẳng qua lá sắc áo gấm ban đêm như mộng huyễn
Danh lợi trước mắt chỉ là bóng mây bay buổi sớm
Năm qua năm ruộng dưa lại chín
Khổ hết sướng lại chắc cũng có ngày)

Ngoài ải gió thu dạt tiếng tiêu
Ban Siêu đầu bạc khổ còn nhiều
Mười năm dâng xác thân vì nước
Vạn dặm xa nhà mộng hẳm hiu
Ngoài xác vinh hoa như vẻ gắm
Lợi danh mây nổi sớm tinh mơ
Ruộng dưa vẫn chín bao năm tháng
Khổ hết có ngày sướng tới theo
HTK
Ngoài ải thu đưa tiếng sáo xa
Ban Siêu đầu bạc chữa về nhà
Mười năm việc nước ơn vua nặng
Nghìn dặm tha hương mộng hải hà
Danh lợi mây mai bay trước mắt
Vinh hoa gắm tối bóng ngoái thân
Năm qua tháng lại dưa dần chín
Khổ tận cam lai sẽ có phần
( Hoàng Duy Từ)

Ban Siêu: tướng đời Đông Hán, đi đánh giặc ở vùng Tây vực, ba mươi năm mới về nhà
Qua điền thục: vườn dưa chín. Theo Tả Truyện, Liên Xứng và Quản Chi Phủ đi thú xứ Quì Châu khi mùa dưa chín, hẹn mùa dưa năm sau sẽ về nhưng thất hẹn nhiều lần.

 ( Còn tiếp)