SỐ 52 - THÁNG 10 NĂM 2011

 

Nguyễn Du ( 34)

 Hoàng Thiếu Khanh

Vọng Quan Âm Miếu

Y thủy tuyệt cảnh cấu đình đài
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá
Kim thân tiền dạ khước phi lai
Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tiệu nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai

Ngẩng nhìn miếu Quan Âm

(Chỗ xa xôi này ai xây cất đình đài?
Phát hết những cành thong làm trứng hạc rơi rụng
Hang đá đã được đục phá từ năm nào?
Còn tượng phật thì đã bay lại từ đêm hôm trước
Mây ngừng khắp chốn, tăng đang ngủ yên giấc
Mặt trời lặn xuống vùng núi non, vượn đang hót buồn thảm
Một nén hương thơm làm tiêu tuệ nghiệp
Quay đầu lại đã xa cách nghìn đỉnh núi)

Nơi đây cảnh đẹp ai xây đài?
Phát hết cành tùng trứng hạc rơi
Hang đá năm nào ai đục phá
Tượng ngài đêm trước đáo đến nơi
Mây ngừng khắp nẻo sư viên tịch
Trời lặn cùng nơi vượn hót dài
Đốt nén hương thơm tiêu tuệ nghiệp
Quay đầu đã cách núi xa khơi             ( KKH)

Hạc thai: than chim hạc còn non, ý chỉ trứng chim hạc
Kim thân là mình vàng, ý chỉ tượng phật

Câu kế chót: Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp ý chỉ điển tích đức phật Thích Ca Mâu Ni kết duyên với bà Da Du một người em họ theo sự xếp đạt của gia đình. Khi ngài quyết định đi tu, trước khi rời hoàng cung ngài có trao cho vợ lúc ấy mới mang thai, một nén đàn hương dặn khi nào lâm nguy thí đốt lên, sẽ giải được tai nạn. Quả nhiên sau đó, khi ngài đi rồi, triều đình kết tội Da Du ngoại tình và xử hỏa thiêu. Bà nghe lời đốt nén đàn hương thì mọi ngọn lửa đốt lên đều tự dập tắt. 

 Tam Giang Khẩu Đường dạ bạc

Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân
Viêu đề thụ diệu nhược vô lộ
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão
Đồng chu Hồ Việt các tương thân
Thập niên dĩ nhất hoàn hương lộ
Ná đắc gia hương nhập một tần

( Trong dãy núi chập chùng Tây Việt một dòng nước hia đôi
Hai núi đối nhau đá lởm chởm
Vượn hót cây xa tít đường bưng bít khuất nẻo
Chó sủa trong rừng vì biết có người
Nhìn bốn hướng trời mây núi, người già cô độc
Người Hồ kẻ Việt, ngồi chung thuyền trở nên thân nhau
Mười năm một lận trở về lối cũ
Làm sao gặp lại cố hương trong giấc mộng? )

Đêm đậu bến cạnh đền cửa Tam Giang

Tây Việt chập chùng nước chia đôi
Hai bên núi đối đá chơi vơi
Vượn kêu cây khuất đường heo hút
Chó sủa rừng sâu vì có người
Nhìn khắp núi mây người độc lão
Chung thuyền Hồ Việt cũng thân thôi
Mười năm một thủa về lối cũ
Sao thấy quê xưa mộng rối bời?                     ( HKK)

Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu

Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hưởng lão đại niên căng quắc thước
Trừ y thực ngoại tẩn doanh dư
Đại Than phong lãng dư tiền liệt
Cổ miếu Tùng Sam cách cố lư
Nhật mộ thành tây kinh cực hạ
Dâm đàm di hối cánh hà như?

( Mở đường Ngũ Lĩnh chinh phạt Viêm bang
Công danh hơn đời còn ghi trong sử sách
Hưởng tuổi già tự hào còn quắc thước
Ngoài chuyện áo cơm còn lại là dư thừa
Sóng gió Đại Than chỉ còn oanh liệt thời trước
Miếu cổ Tùng Sam  cách xóm làng  cũ
Dưới ánh trời chiều trong đám gai gốc nơi thành tây
Lời hối ở hồ Dâm Đàm đã như thế nào rồi? )

Ghi nơi  miếu Mã Viên ở Đại Than 

Núi Lĩnh mở đường đánh Viêm bang
Công trình cái vẫn còn vang
Tự kiêu quắc thước thời bô lão
Ngoài áo cơm ra chả ước mong?
Sòng gió Đại Than còn liệt trước
Tùng Sam cổ miếu cách quê hương
Thành Tây chiều xuống  vùng gai gốc
Lời trối trăn hồ xưa mơ màng             ( KKH)

 

Em họ Mã Viện là Thiếu Du có nói: người ta sinh r a đời chỉ cần ăn mặc đầy đủ, đòi hỏi sự dư thừa chỉ làm khổ thân. Mã Viện khi hết đi được chôn ở thành Tây
Đâm Đàm tứ Tây Hồ: Tục truyền khi Mã Viện đóng quân ở hồ Tây, thấy trên mặt hồ đầy ám khí. Những con chim diều hâu bay lượn trên hồ dần dà rơi xuống chết dưới hồ. Mã Viện nhìn trời mà than: Lời Thiếu Du quả đúng, ta vì tham danh lợi mà sẽ khổ thân ở nơi này. Cuối cùng Mã Viện cũng vùi than ở Tây Hồ ( Dâm Đàm: đầm dâm ám)

( Còn tiếp)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2011