SỐ 61 - THÁNG 1 NĂM 2014

Đường Chiêm bái - 2

(tiếp theo)

 

Em đi để lại mùi hương
Bóng xa vừa khuất con đường xin theo.

Sau ngày hồng quân Trung cộng vào xâm lấn Tây Tạng năm 1959, Đức Dalai Lama cùng với chính phủ của ngài sang lánh nạn trên đất Ấn ở Dharamsala. Công việc đầu tiên họ thực hiện là bảo tồn nền văn hóa truyền thống. Xây dựng đoàn kịch múa dân tộc ; thiết lập xưởng vẽ, xưởng mộc, xưởng đúc... để bảo lưu nền nghệ thuật tôn giáo. Phật giáo Tây Tạng theo tông Kim Cương thừa (Vajrayana), cũng gọi là Mật tông, một tông phái Đại thừa phát triển sau thời Bát Nhã và Pháp Hoa. Mật tông dùng phép tu huyền bí như linh phù, mật chú, ấn quyết. Nên những bích họa Mạn Đà La (Mandala) trên tường chùa hay trên các bức vải treo (Thangka) là một nghệ thuật hội họa sống động và linh thiêng. Các biểu đồ muôn hình vạn trạng này tập trung trong các khối vuông, tròn, thể hiện trí năng và hoạt dụng tràn lan vũ trụ, giúp thị giác thiền định và khai mở Giác ngộ. Tôi dám nghĩ rằng hội họa hiện đại và tiên tiến của Tây phương, như trường phái Kandinsky, đã chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật siêu linh Mandala của Tây Tạng. Hệt như trường phái Ấn tượng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chịu ảnh hưởng của hội họa Nhật Bản.

Sự thác loạn trong mỗi tâm hồn người sẽ được lắng yên và cường dũng khi đối diện trong quán niệm Mandala hay Thangka. Chúng là những bậc cấp dẫn lộ, tiếng thức tỉnh gọi kêu lên đường trong thế giới thụy miên. Dù lắm khi ta gặp các hình ảnh địa ngục, các bộ mặt Târa dữ dằn như Quỷ sống. Thế nhưng Târa  - Kẻ cứu độ -  đều là hóa thân từ giọt nước mắt của đức Quán Thế Âm. Tùy cơ, tùy lý mà Târa tùy hình hiện thân cứu độ, như ông Thiện ông Ác ở các chùa viện nước ta. Târa có cả thảy 21 hóa thân qua các thuộc tính, tư thế thân thể và màu sắc rực rỡ khác lạ.
Nghệ thuật vẽ tranh Tây Tạng chi ly nhưng siêu thực, linh thiêng mà hiện đại. Nó là cỡ cách của tâm hồn trong bao bì thân thể.

Cơ hồ như thu dẹp hết mọi Mandala, Thangka, thì giống nòi Tây Tạng sẽ diệt vong. Chắc vì thế mà khi vừa đặt bước chân đầu lưu vong, Đức Dalai Lama mở ngay các xưởng vẽ để lưu truyền sắc màu bí ẩn cùng tinh ba của trí tuệ.

Lưu vong không là chiếc túi cẩm nang, mà là bộ nhớ teo dần theo năm tháng. Tựa da mặt người người lưu xứ đổi thay trước gương soi tuổi tác. Chẳng mong chi các thế hệ kế tiếp chịu sao chép thần trí hay tinh hồn dân tộc. Hơn thế, chả lẽ văn hóa chỉ là bản sao một sự dừng đứng, thoái trào về quá khứ ? Quá khứ vàng son thế nào chăng, vẫn là quá khứ, cái qua rồi, một thời đã liệt sức bình sinh.

Bài học Tây Tạng dạy chúng ta sức sống hiện tiền và oanh liệt của một giống dân. Vừa giữ bản sắc truyền thống, vừa phát huy trong sinh lực mở đường theo xu thế hướng thiện của toàn cầu.

Tôi thầm phục lúc đến thăm Norbulingka, trung tâm bảo lưu nền văn hóa tâm linh qua các xưởng vẽ, xưởng mộc, xưởng đúc, xưởng may dệt, thủ công nghệ. Có người nói với tôi nền nghệ thuật này đang dần dà hủy diệt trên quê hương Tây Tạng trước làn sóng duy vật tràn theo gót Hồng quân xâm lược.

Bảo lưu chưa đủ, còn phải đào luyện thế hệ trẻ. Tôi gặp rất nhiều thanh niên Tây Tạng tốt nghiệp từ những đại học nổi danh Âu Mỹ. Họ thu thái nền học thuật tiên tiến của thế giới. Nhưng với căn bản văn minh Tây Tạng, họ thực hành tài tình cuộc dung hóa Đông Tây để đẩy xã hội cổ truyền trên đỉnh tuyết xuống hòa nhập với cuộc sống mới của nhân loại. Chẳng những thế, Phật giáo Tây Tạng đang là động lực khai thị cho thế giới loạn tưởng ở phương Tây. Sau thời kỳ dẫn nhập của Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo đang hoằng dương ở phương Tây ngày nay là Phật giáo Tây Tạng.

Ít khi nhân loại chứng kiến sự thuyết phục ôn hòa và quyến luyến như khi nhìn nụ cười và nét mặt sáng rỡ của Đức Dalai Lama. Một Tăng sĩ có danh hiệu Phật sống, người đã đắc pháp, có trình độ tu chứng nhẫn nhục, tinh tấn và hoàn mãn. Lời ngài thuyết giáo lắm khi không quan trọng bằng pháp thân ngài tỏa chiếu một làn sóng diệu hiền khai ngộ vào tâm thức ta. Ngài không nuôi mộng lập giáo hay làm tổ sư. Ngài có đủ một cách tự nhiên cái nằm ngoài những danh hão ấy. Ở ngài, thân giáo, khẩu giáo, ý giáo giao hòa thành bài thuyết pháp bình dị nhưng siêu thần. Ít Tăng sĩ Á châu nào có pháp lực cao cường, đạt được sức thu hút và thu phục những đệ tử Tây phương nổi danh trong mọi lĩnh vực điện ảnh, văn nghệ sĩ, triết gia, khoa học, đại học như thế. Non trăm cuốn sách của các tác giả quốc tế viết về những vấn đề nhân sinh nóng bỏng sau cuộc chuyện trò đối thoại với ngài. Ở ngài, không còn là những cuộc Pháp thoại rù rì kinh viện, làm dáng cải lương, nói năng theo luân lý sơ đẳng của thiện - ác, hạnh phúc - khổ đau thường tục, a dua cùng thị hiếu của thiểu số trưởng giả phương Tây, những kẻ đi tìm sự an tĩnh chốc lát cuối tuần hay các kỳ lễ nghỉ. Nhưng lại đánh mất yếu tính giải thoát tối hậu của Đạo Phật trong tâm linh và giữa cõi đời.

Đạo Phật Tây Tạng thẩm thấu và hoán chuyển tâm thức Tây phương như ngọn kiếm trí năng của Bồ tát Văn Thù vừa chặt đứt từ gốc rễ thác loạn ; như ngọn hải triều hùng vĩ cuốn phăng những đợt sóng lăn tăn ẻo lả.

Anh Tsultrim Palden, tốt nghiệp đại học Havard, trình bày cho chúng tôi nghe về cuộc đấu tranh giải phóng Tây Tạng. Anh không mất thì giờ đề cập sự vô nhân và độc tài của chế độ cộng sản Mao-ít, điều ngày nay chẳng còn ai cần thiết nghe chứng minh. Anh trình bày sự khai thác lâm sản của Trung quốc làm ô nhiễm môi sinh ở Tây Tạng. Anh trưng các số liệu thống kê. Người nghe đau đáu tâm can trước hiện trạng thú hiếm bị tiêu diệt, nạn phá rừng nguy kịch đang thay đổi toàn bộ sinh thái trong lành quê hương anh. Chi tiết làm rùng mình kinh hãi nhưng ít nghe ai nhắc nhở : 85% nguồn nước mà nhân dân châu Á dùng, 47% nguồn nước phục vụ toàn thế giới, đều đổ xuống từ thượng nguồn Tây Tạng. Hãi thật. Điều này có nghĩa rằng, người cầm quyền sinh sát nhân dân châu Á và nhân dân thế giới là người chủ chiếm đóng Tây Tạng ngày nay  - Trung cộng. Một nắm độc dược, các phế thải hóa chất, v.v... vứt trên nguồn nước chót vót trời cao kia sẽ gây nhiễm hay chết chóc các trường giang, sông lạch mà 85% người Á châu đang uống,  45% nhân loại đang dùng !

Chính nghĩa thôi chưa đủ cho mọi cuộc đối kháng, vì còn cần nội dung văn hóa và kiến thức. Hóa ra phương trình "Giác ngộ phá Vô minh" thật gọn và minh xác.

Tất cả những người Tây Tạng tôi gặp, từ Tăng sĩ đến Cư sĩ, từ tiểu thương đến cụ già nội trợ, chỉ cần thốt lên với họ hai chữ Free Tibet ! (Giải phóng Tây Tạng) là ta mở toang cánh cửa tâm hồn đóng kín tận thâm tâm. Trên các bộ mặt trông như đá tảng nghìn năm, liền nở nụ cười hân hoan chất phác như một vòng tay huynh đệ siết lấy ngực ta. "Giải phóng Tây Tạng", mật ngữ mang thần lực tập họp và kết đoàn người Tây Tạng. Khác xa với từ ngữ "Chống Cộng" hay "Bọn phản cách mạng" trong xã hội người Việt.

Kể cũng lạ. Một dân tộc sống trên đỉnh tuyết miên viễn, cách biệt nghìn trùng với thế giới, với kỹ thuật. Mười mấy thế kỷ ròng vùi mình giữa bùa chú, linh phù, tiếng chập chõa với tù-và xương quyển... Thế mà bỗng dưng  họ thích ứng tài tình với thời thế. Vừa làm chính trị hay, vừa truyền đạo giỏi. Truyền đạo giỏi vì họ tu thật ? Làm chính trị hay vì họ không làm chính quyền ? Họ tu và họ sống. Họ hiện hữu để sống Chân Thật và bảo vệ tính Chân Thật.

Phải chăng họ thấm nhuần đạo Phật hơn những giống dân khác ? Họ nắm bắt Tính Không như chỏm núi quơ mây ? Họ đặt đúng bước chân vào con đường Trung Đạo ?

Trong khi hầu hết mọi người hiểu "Không" (Sunyata) trên phương diện thời gian, người Phật tử Tây Tạng hiểu chữ "Không" tuyệt đối theo truyền thống Đại thừa ?

Người Việt hay quen miệng ta thán : Có đó rồi không đó ! Câu ta thán rủ rê theo một loạt chán chường, tụ thủ, ù lì, bất lực. Đời như giấc mộng lớn, có đó rồi không đó, làm chi cho mệt ! (Xử thế nhược đại mộng, hồ vi lao kỳ sinh). Câu viết của một hiền nhân Tàu ghi ra trong một tâm thế khác, trong một tri thức khác, lại được người Việt ta biến chất đem dùng để khoe chữ và che giấu sự ươn hèn).

Phải lắm. Thân ta bây giờ đang hiện hữu, nhưng mai kia sẽ chết. Hiện tại có, tương lai không. Có đó rồi không đó. Tính Không (Sunyata) được giải thích như vậy chỉ là "Không" trên phương diện thời gian. Chứ chưa là "Không" tuyệt đối trong Đại thừa giáo. "Không" tuyệt đối (Sunyata) là "không" ngay ở nơi hiện hữu. Bởi vì mọi hiện hữu chỉ là giả hợp. Mọi danh xưng chỉ là giả danh. Mọi hiện hữu, mọi cái có mà ta thấy, sờ mó hay cảm nhận, đều được lập thành từ nhiều yếu tố (duyên). Không có tự thể nào riêng biệt, vĩnh hằng. Đống cát kia do những hạt cát kết nối làm nên. Cuồng phong thổi qua, đống cát không còn là đống cát, đống cát tan bay. Xuống tới một hạt cát lẻ loi cũng vậy, thuyết vật lý nguyên tử cho biết chẳng có phân tử nào cô lập, riêng biệt mà hiện hữu. Kinh Kim Cang (Vajrachedikasutra) diễn tả thơ mộng qua bài kệ : "Mọi sự tồn tại (các pháp hữu vi) đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng, như sương móc, như điện chớp. Hãy quan sát như thế!".

Đừng quên câu cuối rất quan trọng : Hãy quan sát như thế ! Hãy quán chiếu như thế, hãy lắng sâu vào đáy thức bất tận, để đặt trái bom hạch nhân làm nổ tung lối suy nghĩ trói tay, lối suy nghĩ tù trí, lối suy nghĩ thường tục, kẹt lối, nhị nguyên vô vọng. Nói theo ngôn ngữ nhà văn Mỹ Salinger, là "Hãy mửa quả táo ra !". Mửa ra khỏi lòng dạ mọi mặc cảm tội lỗi hay vô minh che ám. Quan sát, quán chiếu, lắng sâu vào sự thật hiển nhiên : "Mọi sự tồn tại (các pháp hữu vi) đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng, như sương móc, như điện chớp".

Quán triệt được như thế, một sinh thức mới, một hành động mới hiện lên trên chân trời Giác Ngộ.

Không chịu quán chiếu, mà chỉ giải thích bâng quơ, rằng mọi sự là "không", mọi vật đều "giả danh", mọi sự đều mộng, huyễn, bọt nước... dễ đưa tới tác phong vô vi, lánh đời, tụ thủ bàng quan. Quán chiếu (quan sát rốt ráo) là vượt thắng cái nghĩa đen tiêu cực chưa khai mở của sách vở, để bước chân vào đường lớn của Trung Đạo.

Căn bản tuy "không", tuy "giả hợp" và "giả danh", nhưng kẻ đạt tới Trung Đạo là người dấn thân làm hết mọi việc. Kẻ ấy không chấp trước (cột dính vào) quả báo khi hành động -- bởi các tướng đều hư vọng. Hành động như thế là bộc lộ ý nghĩa thâm huyền của Kinh Kim Cang: "Ưng vô sở trú như sinh kỳ tâm" (không bám víu vào bất cứ đâu hay chỗ nào khi phát tâm).

Từ đó, làm tất cả mọi việc mà không thấy mình làm. Cứu độ muôn loài mà chẳng thấy ai được cứu độ. "Không thấy mình làm", "chẳng thấy ai được cứu độ", nói lên tinh thần Vô Ngã. Chứ không là vấn đề chính danh hay số lượng toán học.

Tuyết thiên thu và đạo Phật khai phóng đã tôi luyện nên giống nòi Tây Tạng trên bướcđường Trung Đạo chăng ? Dù sao, căn bản văn-tư-tu đạo Phật nghìn đời liên tục của người Tây Tạng đáng cho ta suy gẫm về hiện trạng dao động, loạn tưởng, thất tán của nhiều Phật tử Việt ngày nay.

Mỗi buổi sáng tinh thơ tôi ghé thị trấn McLeod Ganj vào tiệm Amdo Cha-chung gọi một cốc trà gừng.  Nhớ Huế. Nhớ bát chè Truồi vàng trong như sắc vàng tranh Lê Phổ. Huế mà cũng là Quy Nhơn. Thuở nhỏ có thời tôi ở Cầu Đôi nơi căn nhà ông bà Ngoại. Nơi đó có núi, con tàu suốt, có lò gạch và lò đường. Những táng đường màu nâu sẫm ngọt xớt tính thèm thuồng trẻ nít. Nước bọt không đủ làm tan cơn khắc họng. Con tàu suốt từ Huế vào, chạy xình xịch cuối bìa vườn của Ngoại. Tiếng vọng va vào núi thẳm, đến cùng với tiếng còi thúc giục gọi không gian tránh xê ra. Trên con tàu suốt ấy chúng tôi chỉ đợi một người. Người ấy là dượng Pháp. Lũ trẻ chúng tôi tuôn cỏ nhảy tràn về phía con tàu đang quay bánh thản nhiên. Như một nghi thức, mỗi chuyến tàu qua dượng Pháp nhoài người vất xuống một bó chè Truồi xanh ngắt, trùng điệp vào cỏ lá cây đồi. Nhưng bó lá rong du vô cảm kia gây sóng sảnh tâm hồn ngây dại chúng tôi.

Bây giờ Huế có còn không những bà bán nước chè Truồi cho những bác phu xa và kẻ quađường khi hè tới ? Bát chè bốc khói dưới nắng nung trên từng hạt mồ hôi lăn ngọc, đậm vị giải khát và tăng cường cơn sảng khoái. Nhưng rất dễ say mòng với ai chưa quen, như số người lần đầu hút điếu thuốc vấn Cuba khổng lồ.

Tiệm Amdo Cha-chung nằm trên tầng thượng lộ thiên. Nắng gắt bổ xuống đầu. Tôi chọn chiếc bàn đối diện dãy Hy Mã Lạp sơn tuyết phủ, hiện sửng trên nền trời sau rặng núi chập chùng quanh Dharamsala. Vài nõn mây trắng leo hoài lưng chừng sườn không thấu đỉnh. Dưới thung lũng những chỏm nhà mái đỏ ẩn vào sương sớm. Trên cao trời xanh ngắt. Những con ó bay lượn kiếm mồi, chốc chốc lao sà xuống trũng sâu quắp chuột.

Chợt nhớ câu thơ Huy Cận cực hay : "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa". Sa là rớt, là rơi. Nhưng không rơi đứng mà xế nghiêng, vì cánh chim chao nghiêng như thi sĩ báo hiệu. Không khí cùng gió thường đỡ thân chim bay bổng dưới cánh đập. Song chiều buông sa, hoàng hôn nặng bóng đè lên cánh. Sức nặng của bóng tối thật u trầm. Chim cố đỡ vẫn khó trả về cho đất mảng nắng trưa nồng cháy. Đêm tan loảng vừng hào quang người.

Chim, cánh, tư thế trên màn chiều..., những chữ nghĩa thơ. Song thơ không ở riêng đấy. Thơ hiện ra trong chớp mắt nơi Bóng chiều với tất cả dáng vóc của nó. Chẳng phải chiều đâu, mà là bóng của chiều. Bởi thế mới có sa, có ngã xuống, xế nghiêng từ lòng trời chạng vạng.

Bây giờ mỗi sáng, đàn ó chao lượn duới mắt tôi không nặng cánh hoàng hôn, mà cứ lênh trên tầng gió. Chim sà theo ý lực kiếm mồi, không là cánh chim thi sĩ sa theo bóng chiếc chiều hôm.

Cốc trà gừng là giọt nắng đọng giữa trùng núi bạt ngàn. Ba khối vàng tươi quấn quyện. Đáy cốc một lớp mật ong óng ả. Màu nước chè trong suốt bên trên. Thêm đôi lát gừng đập dập. Người dọn bàn lẳng lặng đưa tới, nhưng khách chủ đều hội ý cho động tác khuấy nhanh thành cốc nắng mượt mà.

Vị ngọt chen qua hớp đầu vừa ngụm, tới thanh quản bốc mùi gừng, vào đến bụng trà khởi sự tọa thiền. Từ phổi thở ra niềm vui thanh thoát. Cứ thế từ từ, ung dung hớp đến cạn ly. Người lâng tỏa ra mây, ra gió, ra hư không thi thiết.

Người ngút vào lòng núi. Âm thanh, màu sắc đổ rót vào nhau đón mừng.

Cảm từ mỗi hạt máu trong người những triêu dương chuyển động.

(còn tiếp)
THI VŨ

(nguồn: Tạp chí Quê Mẹ số 147, Paris, 1999)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2014