SỐ 76 - THÁNG 10 NĂM 2017

 

Đỏ hoa vông… và gió

Thật sự, hai bài viết dưới đây mang không khí thơ, bởi nó cũng lãng đãng, đầy âm vang và màu sắc. Nghĩ cho cùng cũng chỉ tại con người mình mà ra. Vậy xin bạn nhỏ hãy đón nhận nó, như đón nhận những cánh hoa vông đỏ rực của lòng tôi cuốn bay theo gió…

Đỏ hoa vông…

Hồi mới tới xứ này, lang thang ở những triền đồi Penas­quitos hay những con đường vùng Huntington Library và Irvine ở Nam Cali, mắt tôi được nhìn thấy hoa vông đỏ nở rộ, rạo rực cả đất trời. Và mới đây thôi, một ngày đầu tháng Tư, cùng với Đinh Cường và Huy Phương đi thăm lại cây cầu Woodbridge ở Irvine nơi chia tay với H. ngày nào, bỗng bang hoàng gặp lại hoa vông. Vẫn là những bông hoa hình bàn tay với những ngón nở xòe màu đỏ rực. Đúng rồi, màu đỏ hoa vông của đất nước tôi đây, tuy không sâu sắc và giàu cảm thức bằng hoa đào, cũng gây ra xúc động đau đớn. Bao giờ cũng thế, không hiểu tại đâu, hễ ngắm màu đỏ thẫm của hoa vông là lòng tôi lại xốn xang, nhức nhối, như có một vết thương nằm sâu trong hồn bỗng rớm máu trở lại.

Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy màu đỏ hoa vông là ở một cư xá quân đội, đường Sư Vạn Hạnh (không biết tôi có nhớ sai tên đường không, nhờ Hồ Hoàng Hạ hiện ở thành phố Chim Phượng trong vùng sa mạc nhắc giùm), ở phố núi bụi mù Pleiku, vào những ngày của tháng Ba năm 1974. Những ngày còn cháy lên trong tâm tưởng tôi, và bạn, cả em nữa, ngọn lửa hỗn mang, ảo ảo hồng hồng, của một cuộc chiến đang tới màn vĩ thanh. Những ngày ấy, giữa hai chuyến đi lên Eo Gió và đồi dã quỳ bên đỉnh ngọn Chu Prong, tôi ẩn cư tại nhà cô em trong cư xá.

Buổi sáng, uống cà phê xong, nằm trên chiếc giưòng nhà binh có trải tấm poncho light, nhìn ra cửa sổ, thấy một cây vông chỉ còn mươi chiếc lá màu vàng mỏng manh. Sáng hôm sau, chỉ còn hai chiếc đong đưa đầu cành. Không, tôi không bị ám ảnh vì tác phẩm Chiếc Lá Cuối Cùng của nhà văn Mỹ kia đâu, mà là điều có thực ở những ngày mênh mang ấy. Lại sáng hôm sau nữa, không còn một chiếc lá nào trên cây. Nhưng, ô kìa, một đóa vông đỏ thắm hiện ra như một ảo tưởng của thời chợt khóc chợt cười. Một đóa vông đỏ dưới trời chiến tranh. Từ nốt nhạc dạo đầu ấy là cả rừng vông nở rộ trong nắng dội Pleiku. Và gió mùa thổi về. Tôi thấy lòng mình bỗng mở rộng, không giới hạn nữa. Tôi bắt đầu viết Tôi Cùng Gió Mùa trong khung cảnh này. Viết xong bài thơ, mới version thứ nhất, thì được tin bạn văn là Đỗ Thiều chết trên triền Bằng Lăng, trong một chuyến hành quân trực thăng vận. Anh bị bắn thủng ngực và hông, máu ướt đỏ tập bản thảo truyện ngắn Đêm Trong Vườn Đá Tảng, tác phẩm đầy những âm thanh cuồng nộ (sound and fury) của Shake­speare mà đi đâu anh cũng mang theo.

Màu đỏ hoa vông, từ điểm vào truyện ấy, đã mang không khí bi kịch. Nó không là màu của hạnh phúc nữa, mà là chia ly, đứt đoạn, những mảnh đời không bao giờ gặp lại nhau.

Đầu tháng Tư 1975, tôi lại nhìn thấy màu đỏ hoa vông trên con đường đi tìm thân nhân thất lạc qua những rừng bông vải, trên những triền cát Phan Rang. Cây vông đó đứng trong vườn nhà của một người Chàm, cạnh chiếc xe bò đã gãy mất một bánh, và quanh vườn có rào bằng cây khô. Bước trên triền cát bỏng, tôi bỗng thấy trước mắt ngước nhìn, cây vông đỏ rực như một hồn oan chợt hiện. Như thế đó, chỉ mấy ngày sau là mất hết. Nha Trang, Cam Ranh, Phan Rang, Sài Gòn...

Trong tôi, màu đỏ hoa vông mãi mãi là một ám ảnh khốc liệt. Tại sao vẻ đẹp như thế lại nhuốm màu bi kịch. Hay có mùi hương trong cơn bão tố, vẻ lộng lẫy trong cái dẫy chết của chiều tà. Những bức Sunflowers của Van Gogh còn làm đớn đau tê dại trí óc con người. Dẫu thế nào, tôi không quên được màu của hoa vông. Và tôi gặp lại nó sau ngày đi tù về. Những bạn bè của tôi chuẩn bị ra đi không thấy có ngày quy cố hương. Đinh Cường, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền trước. Tô Thùy Yên sau. Cuối cùng đến lượt tôi. Trong những ngày sống lây lất chờ đợi, chúng tôi thỉnh thoảng có gặp nhau bên chung trà hoặc ly rượu đắng đến tận cùng nỗi đắng. Thường thì ở nhà Tô Thùy Yên, nghĩa là đi sâu vào vùng Ngã Ba Cây Thị, Xóm Gà, Cầu Hang... Từ nhà tôi ở Thanh Đa, đạp xe qua Cầu Đỏ, qua ao sen, đi mãi mới tới nhà bạn. Và trên đường đi, vào khoảng tháng Ba tháng Tư, tôi gặp cây vông nở hoa màu đỏ sau một hàng rào gỗ bên đường, khi vừa đạp xe qua chiếc cầu xi-măng. Đỏ bầm như máu, đỏ điên mê ác mộng, ôi hoa. Từ màu đỏ ấy, tôi đi. Trời mưa những trưa có tiếng trẻ cười và lòng tôi đỏ ối. Nước mắt ơi, đừng rơi.

Đến Mỹ, như đã nói ở đầu, lại gặp màu đỏ hoa vông ở vùng nắng rộng Nam Cali. Nhưng nỗi đau giờ đã lắng sâu vào bên trong, còn nỗi nhớ thì rất đầy. Tôi hát trong màu đỏ khi rời nơi đây để hẹn ngày trở lại. Thế mà xuân tàn, hè đã vào sâu, tôi vẫn chưa làm xong cái hẹn. Nếu những ngày hè này tôi không tới được Irvine thì ai ơi gọi dậy giùm tôi màu đỏ hoa vông và thổi về đây trong nắng, trước khi thu vàng buồn bã bắt đầu.

 

...Và gió

Một buổi trưa trên đồi Penasquitos, tôi đang ngồi trầm tư, thì bỗng ngọn gió khốc liệt từ những vùng đất xa xôi thổi về. Đâu đó, đã có lần tôi nghe nói đến ngọn quái phong Santa Ana.

A, trận gió kinh mang từng thổi qua mấy trăm năm lịch sử của vùng đất chưa dứt âm vang, chạy trên những con đường dài rồng rắn, thổi rúc như còi sừng trên những kiến trúc Mễ Tây Cơ ngơ ngác trong màu nắng vàng hồ, thổi và làm kêu rung những tên đất tên người đầy âm a âm ô.

Này hỡi gió. Chào trận gió Quỷ Thi làm cỏ cây tàn úa, khô cạn suối nguồn, cát chạy đá bay, lòng dạ xốn xang, vỡ lở những vết thương của trời và đất. Tôi bỗng, trong phút hỗn mang, nghĩ đến quê nhà với ngọn đông phong thổi lạc vợ xa chồng, nước mắt tuôn rơi. Tháng này, gió mùa Đông Bắc cũng đã thổi tới trên quê hương tôi. Âm vang. Âm vang qua dòng sông vắng và những cánh đồng. Đã nở hết những bông hoa mùa cuối trên đất nghèo. Tôi bỗng nhớ đến, như còn rợn trên da thịt, ngọn gió Lào thổi qua biên giới vào vùng Nghệ Tĩnh những ngày nào. Thổi xơ xác đồi chuối hoang, thổi khô rốc thân tù, đỏ hoe bụi đất, quặn thắt ruột gan. Này bạn, nhớ không, những đêm nằm nghe gió giật mái tranh, o o trong sọ rỗng. Tưởng như tiếng ác điểu gào, báo giờ nguyệt tận. Và tôi chẳng thể nào quên. Vâng, tôi chẳng thể nào quên bản hợp âm màu đỏ của mùa thay lá những khu rừng cao su, khi gió thổi bùng đống lửa nhân gian, đám lưu dân ngồi đợi tia nắng đầu tiên. Cũng như tôi không quên mùa gió tháng Ba trên Eo Gió thổi qua rừng dã quỳ và đồi hoa vông đỏ ở Pleiku. Đó là những ngày báo hiệu tàn cuộc chiến. Trận gió cuốn cờ đang thổi qua bờ cõi.

Gió, như từ những trang thơ của St John Perse. Vâng, đã từng có những cơn gió lớn đi qua mặt địa cầu. Và tôi đã đi qua nửa vòng trái đất để đến đây trên đồi Penasquitos gặp luồng quái phong hung bạo. Tôi muốn nói. Tôi muốn nói. Gió, hãy thổi ngược lại đoạn đường đã đi qua, tìm lại tôi những mảnh vỡ ngày nào. Nơi có bóng khu vườn và những ngôi mộ đá ong, tiếng bà ru cháu nhiếp gọi hồn âm. Và sau Vương Phủ, dưới bóng những cây bàng phai lục ố hồng, nhà thơ điên nửa đêm cầm bút viết lên trời trang thơ quỷ khóc. Gió, hãy thổi ngược lại phía đầu làng, đám trẻ ngày nào đang chơi trò chơi rồng rắn. Dưới ánh trăng, ăn hết khúc đầu cả xương cùng xóc. Ăn khúc giữa đầy những máu me. Nuốt tới khúc đuôi. Nuốt tới khúc đuôi. Mặt đất bỗng lên cơn dữ. Tượng đài xiêu. Sụp đổ, trong sớm chiều, bức tường ý hệ. Và gió, đưa ta về phượng thành. Em từ vùng nước xanh ao sen mùa hạ bước lên. Tóc và quần áo dính vào da thịt. Hai tay em ôm đầy bông sen đỏ. Ta gọi tiền thân em là hương sen.

Gió vẫn thổi, như tự nghìn năm, ngược nẻo đường xưa.

Và như thế, đã có những cơn gió thổi trên lịch sử, trên kiếp người. Thổi qua hồn tôi.

Nguyễn Xuân Thiệp
(trích “Tản Mạn Bên Tách Cà Phê”, tạp bút, Nguyễn Xuân Thiệp, Trẻ Magazine, 2012)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2017