NHÂN SINH NHẬT LẦN THỨ 21
                  NHỮNG KỶ NIỆM CÙNG THƯ QUÁN BẢN THẢO
              TRẦN THỊ NGUYỆT MAI
              
              Thời giờ thấm thoát thoi đưa
                  Nó đi đi mãi có chờ đợi ai... 
              Ôi thời gian! Thế là hôm nay Thư Quán Bản Thảo (TQBT) đã ở  ngất ngưởng con số 100. Con số của một đời người. Tôi thỉnh thoảng vẫn hay ngâm  nga câu thơ đầu của Kiều: “Trăm năm trong cõi người ta”... để nghe lòng  ngậm ngùi quá đỗi: 
              Trăm năm còn lại những  gì 
                  Còn chăng những nỗi  sầu bi đắng lòng... (TTNM) 
              Nghe như tiếng thở than của Ôn  Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc: 
              Trăm năm còn có gì  đâu
                  Chẳng qua một nấm cỏ  khâu xanh rì...
              Ơ hay, TQBT đang vui mừng đạt tới  số 100, cớ sao nói chi những chuyện buồn phiền như thế? Xin nói ngay, tôi bị  dính “Cô” khi đi nghỉ hè ở miền Nam California. “Đắng” này là từ hậu quả của  thuốc Paxlovid. Một lúc sau khi uống 3 viên đầu tiên, tôi đã text cho Bác  sĩ Ngô Thế Vinh: “Thuốc bắt đầu ngấm. Miệng em đắng nghét”. Ông Thầy an ủi học  trò: “Thuốc đắng dã tật. Bộ thuốc trị bệnh mà NM đòi ngon như ô mai sao?” Ước  gì mọi thứ trên đời đều ngon như ô mai thì dễ chịu biết bao! Tôi bị “Cô” chiếu  cố tận tình hết sức! Đã hơn 10 ngày mà kết quả vẫn còn dương tính. Phải tiếp tục  cách ly với hết thảy mọi người, lúc nào ra ngoài cũng phải mang mặt nạ thật khó  thở, dù trước đây khi tự nguyện nên cảm thấy rất thoải mái, còn bây giờ thì bắt  buộc nên bỗng thấy... khó chịu! Hôm qua, thứ hai đầu tuần, boss gọi điện  thoại hỏi có thể đến sở sau giờ làm việc để làm một số việc “không thể chờ được”  không, tôi OK liền. Làm cái test nhanh, chụp hình text cho boss xem: “Kết quả không chắc chắn. Vẫn còn một đường chỉ mảnh màu hồng ở phần mẫu thử  (sample)”. Một lúc sau boss viết lại: “Đã hỏi Bác sĩ W. “Cô” đang đi ra  khỏi thân bạn vì đường hồng rất nhạt. Nhưng bạn vẫn phải tiếp tục cách ly 5  ngày. Và sau đó vẫn phải đeo mask thêm 5 ngày nữa...” Tôi xem đây như một “tin  vui giữa giờ tuyệt vọng”, đã sắp thoát khỏi “Cô”, nên đến sở với tâm hồn phơi  phới, đeo mask và đóng cửa phòng lại trong khi làm việc, chẳng khuấy động đến  ai. Với niềm vui đó, hôm nay tôi ngồi viết những dòng chia sẻ này.
              Nhân duyên nào để tôi có thể trở  lại với văn chương Việt khi ngỡ đã không còn một cơ hội? Thời thiếu nữ của tôi  đã mất cùng với năm tháng đó như bao người con gái ở phía Nam cùng trang lứa. Để  thấy được mọi bất công nghiệt ngã trên phần đất đã nuôi dạy mình tính nhân bản  từ lúc mới đến trường: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Những cuộc hủy diệt phần  thư, đày đọa những sĩ quan và viên chức chế độ VNCH vào tù cải tạo, chính sách  kinh tế mới, đối đãi hồng hơn chuyên, trái tai gai mắt... Đường đã dồn đến  cùng, nên người bỏ nước ra đi là điều không thể tránh khỏi. Đến một xứ sở mới  khi đã không còn trẻ, bắt đầu lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, lại ở một nơi xa  xôi hẻo lánh không có cộng đồng người Việt, nên tôi hầu như đã quên chữ nghĩa Việt  dù vẫn được nói tiếng Việt trong gia đình. Lúc ấy máy tính, internet và các  trang mạng văn chương chưa được phổ thông như bây giờ. Báo chí Việt lại càng  không có cơ hội đến nơi xa xôi hẻo lánh, rất ít người Việt chỗ tôi sinh sống. Lo  học hành, kiếm tiền cộng thêm bổn phận gia đình đã cuốn hút tất cả thời gian của  tôi... Cho đến mãi về sau này, nhờ vào các phương tiện  máy tính, mạng lưới internet và các trang mạng bắt đầu phát triển rộng, tôi  liên lạc lại được với chị Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh, một cây bút rất quen thuộc  của Tuổi Hoa, một bạn văn thân thương thuở ấy mà chúng tôi xem nhau như chị em một  nhà. Một bài tùy bút trên Tuổi Hoa ngày đó của  chị Cam Li được anh Trần Hoài Thư chọn đưa vào cuốn Văn Miền Nam nên trong một  dịp trò chuyện, chị giới thiệu công trình sưu tập văn chương miền Nam của anh  chị Trần Hoài Thư để từ đó tôi viết thư cho anh đặt mua bộ Văn Miền Nam. Ngoài  sách đặt, anh còn gửi tặng tạp chí Thư Quán Bản Thảo và tập thơ Ô Cửa thật dày  của anh. Thơ anh rất hay nhưng đó đây có những lỗi chính tả. Tôi bèn lấy giấy vừa  thưởng thức thơ vừa ghi ra những lỗi ấy, gửi lại để anh sửa cho những lần in  sau. Chẳng ngờ chuyện nhỏ nhoi đó lại trở thành “định mệnh” giúp tôi trở lại với  văn chương Việt và được quen với những người Anh, người Chị, người Thầy, người Bạn  văn chương hết sức tuyệt vời...
              Tôi  bắt đầu giúp anh Trần Hoài Thư đọc bản thảo từ TQBT số 46 (tháng 4-2011)  chủ đề Tưởng nhớ Nhà văn Doãn Dân cho đến số 60 chủ đề Tạp chí  Sáng Tạo (tháng 7-2014). (Những số sau này tôi chỉ được đọc khi nào  anh nhờ giúp). Buổi đầu có rất nhiều lúng túng và bỡ ngỡ. Rời quê hương và  không còn đọc viết tiếng Việt đã trên 20 năm, cách chi nhớ nổi hết! Chữ đầu nào  nên dùng d hoặc gi, và chữ cuối nào nên là t hoặc c, những dấu hỏi và ngã “bất  quy tắc”? Ôi chao, điên cái đầu! Thời gian đó tôi cứ email liên tục hỏi chị Cam  Li vì lúc xưa đã có thời gian chị làm “cô cò” cho báo Tuổi Hoa. Có “quới nhơn”  giúp đỡ và tôi cũng cố gắng học hỏi nên dần rồi việc cũng quen. Sau này lại có  những links tự điển để dễ dàng tra cứu nên lần hồi việc này cũng trở thành đơn  giản.  Cũng có khi bị bí, không hiểu, thì tôi hỏi anh THT những thắc  mắc. Như lúc làm TQBT số 49 chủ đề Nhà thơ Lâm  Vị Thủy (tháng 12-2011) trong bài thơ “Cho một người xem” trang 224, có chữ “xếp  tanh”: 
              Có phải cuộc đời như ga xép
                  Chúng mình những chuyến tàu  quen thuộc
                  Đôi mắt người xếp tanh giờ ngó tìm  qua vuông kính mở
                  Những dòng sông, 
                  Những cánh rừng cao su chưa lấy  mủ
                (Cho một người xem – Lâm Vị Thủy) 
              Thì được anh giải thích: Xếp  tanh (từ gốc tiếng Pháp “chef de train”) là nhân viên hỏa xa phụ trách tổng  quát trên xe lửa. Nên tôi đã để ghi chú này dưới bài thơ để mọi người cùng hiểu.
              Tờ báo đầu tiên trong buổi “xuất quân” của tôi có nhiều kỷ  niệm. Đầu tiên là hiểu được nỗi vất vả của anh chị Trần Hoài Thư – Nguyễn Ngọc  Yến khi đi sưu tập tài liệu: “... 4 giờ sáng mồng 7 Tết Tân Mão, bắt đầu rời  nhà. Rời nhà khi trời còn đen tối, khi tuyết bão, khi trời sương mù dày dặc.  Khi chúng tôi đến Scranton, cách thư viện Cornell khoảng 50 dặm, vào lúc 8 giờ  sáng thì đường đông đá. Chiếc xe đầu chạy chậm lại khiến tôi, quen như một phản  xạ, cũng đạp thắng và đạp rất nhẹ. Vậy mà xe đã mất điều khiển trợt tự do. Hết  trái, rồi qua phải, không thể kiềm chế nó nổi. Trong khi đó phía đường ngược  chiều nằm phía bên trái, một chiếc xe truck chạy ngược lại. Tôi chỉ còn biết nhắm  mắt...” (Rong bút – Trần Hoài Thư – tr. 5). Rồi thật tình cờ, trong bài “Những  lần ra mắt sách” của anh Nguyên Minh, ở trang 33, nhìn tấm ảnh chụp nhóm Ý Thức  trong đó có vợ chồng anh chị Hồ Thanh Ngạn – Nguyễn Thị Dung của Thanh Yên và  Thanh Lam – hai cô bạn ngày cũ – tôi như gặp lại người quen. Thêm một điều lạ nữa  là khi dò “Bàn Tay Cho Yến”, truyện ngắn của Doãn Dân, bỗng thấy một đoạn bị  thiếu. Tôi copy đoạn đó vào email định nhờ anh Trần Hoài Thư tra cứu giùm bản gốc  để thêm vào, thì thật mầu nhiệm, chữ nghĩa hiện ra rõ ràng!
              Một chuyện tình cờ nữa là khi  làm số 49 (tháng 12-2011) ở phần bài vở cho chủ đề Giáng sinh, anh THT có hỏi ý  tôi là nên cho đi một truyện ngắn của anh viết trước 1975 về người lính trong  ngày Giáng sinh hay nên đi một truyện sau 1975 về người tù cải tạo? Tôi đề nghị  đi bài trước 1975 để độc giả thấy được những hy sinh của người lính ngoài mặt  trận chịu mưa rét giá lạnh hành quân giữ cho hậu phương được yên ổn vui chơi  trong ngày lễ cuối năm. Anh đã đồng ý và cho đi bài “Nay Lát”. Đến khi bạn  Quang Võ giúp sưu tầm và đánh máy lại tập truyện ngắn “Những vì sao vĩnh biệt”  do Ý Thức xuất bản năm 1971 của anh, mặc dù cuốn sách được sưu tập nguyên vẹn  không thiếu trang nào, nhưng truyện “Nay Lát” trong sách lại bị thiếu một đoạn  (và truyện “Như Ân Thánh Sủng” ghi ở mục lục nhưng trong phần nội dung lại  không có). Nên tôi đã dùng truyện này so sánh với đoạn thiếu để nhờ Quang Võ đưa  thêm vào. Anh Thư ơi, đây là chuyện bây giờ mới kể, anh thấy có điều trùng hợp  kỳ lạ không? 
              Ký ức lại  đưa tôi về khi làm tập TQBT 50 – Chủ đề Nguyễn Đức Sơn (tháng 2-2012) là khi đọc  bài anh Đinh Cường có chỗ không rõ lắm nên tôi viết thư hỏi. Anh đã trả lời rất  tường tận và còn giúp tôi dò bản gốc thơ ở những bài viết khác... Đó cũng là khởi  điểm để tôi được quen thân hơn với anh. Anh là một trong những cộng tác viên rất  đắc lực và một mạnh thường quân của TQBT. Ngoài đóng góp tranh bìa, minh họa và  bài vở, do mối quan hệ bạn bè rộng rãi, thân thiết, anh còn giúp liên lạc với  gia đình tác giả. Như đã giúp liên lạc với chị Kim Nhung, em gái nhà văn Nguyễn  Thị Thanh Sâm để in lại tiểu thuyết Cõi Đá Vàng. Hay nhà thơ Trần Xuân Kiêm,  phu quân của Nữ sĩ Phùng Thăng khi thực hiện TQBT số 59 – Tưởng niệm Phùng  Thăng (tháng 3-2014). Cũng số báo này, anh ĐC đã nhờ “cặp đôi hoàn hảo” Phạm thị  Anh Nga – Bửu Nam ở Huế tìm giúp tất cả những hình ảnh tư liệu về Phùng Thăng,  mượn thư viện cuốn “Kẻ lạ ở Thiên Đường” của Simone Weil và scan truyện đó để  TQBT có thể giới thiệu với bạn đọc. Anh rất nhiệt tình giúp những gì anh có khả  năng giúp. Tập TQBT 60 – Chủ đề Tạp chí Sáng Tạo (tháng 7-2014), anh đã thức rất khuya để chụp giúp thơ trên 4 số báo Sáng  Tạo mà trong file Sáng Tạo của anh THT không có. Khi anh THT bắt đầu tập cho  tôi làm bìa TQBT thì chính anh Đinh Cường cũng đã giúp ý kiến, chỉ dẫn. Đối với  tôi, anh lúc nào cũng như một người Anh, một người Thầy mà tôi rất quý kính.
              Cũng qua TQBT tôi được quen với  anh Nguyễn Phán, nguyên Đại úy Biệt Động Quân, khóa 24 Võ Bị Đà Lạt, người sĩ  quan đã sống sót trở về sau những ngày đụng trận rất khốc liệt nơi chiến trường  An Lộc “An Lộc địa, sử ghi chiến tích” năm 1972. Anh cũng là một trong bảy  thành viên sáng lập Hội HO cứu trợ TPB & CNQP/ VNCH. Sau khi số TQBT 64 chủ đề “Một nơi nào để nhớ” phát hành vào tháng 5-2015,  tôi nhận được  từ anh THT: 
              Chuyển  em thư mời cộng tác của anh chủ bút tờ Đa Hiệu (Võ Bị Đà Lạt).
                  Chúc  lành
                  THT
                ---
              2015-06-26 19:20 GMT-04:00 Thuc  Phan <xxxxx@yahoo.com>:
                Thưa  anh,
                Anh  và chị Yến có khỏe không?
                Xin  hỏi anh và nhờ anh. Trong THƯ QUÁN BẢN THẢO số 64 tôi đọc được nhiều bài viết về Sài  Gòn mà tôi rất ưng ý của nhiều tác giả mà trong đó có anh, chẳng hạn như bài  SÀI GÒN VÀ TÔI của anh (trang 50) và Một Thoáng Hương  Xưa của Trần Thị  Nguyệt Mai (trang 141)... Anh có thể bắc  giùm một nhịp cầu nối giữa tôi và tác giả Trần Thị Nguyệt  Mai để tôi mời cô cộng tác với tập san Đa Hiệu. Đây là lần đầu tiên mà tôi đọc  bài viết của nữ tác giả này và bị cuốn hút ngay vào lối viết rất tự nhiên nhưng  hấp dẫn người đọc.
              Ngày 1 tháng 7 năm 2022 vừa qua, anh Nguyễn Phán đã được Chúa  gọi về. Trên trang báo này, em xin được mặc niệm tưởng nhớ đến Anh. “Thác là  thể phách còn là tinh anh”. Anh đã sống một đời rất đẹp, với tổ quốc, với  tha nhân. Nên Anh sẽ mãi còn trong tim của rất nhiều người.
              Thế đó, TQBT như một mái nhà kết nối giữa người đọc và người  viết, giữa người viết và người viết. Như trong điện thư ngày thứ sáu 15-4-2016  anh THT chuyển cho tôi:
              NM thân:
                Nhà thơ Phạm văn Bình vừa để  MSG nhờ anh chuyển lời ngợi khen về bài Lục bát của NM trên TQBT số mới*. Nguyên  văn: “Bài thơ dù ngắn gọn nhưng đọc thật xúc động. Đọc đi đọc lại vẫn hay...”.
                Chúc lành về em và gia đình.
                THT
              [* Ghi chú: Bài thơ “Người Đi”  viết nhân 49 ngày của họa sĩ Đinh Cường đi trên TQBT  số 69 (tháng 4-2016) chủ đề Tạp chí Mai.]
              Tháng 11-2012,  nhân chuyến về thăm gia đình, anh Trần Hoài Thư đã nhờ tôi liên lạc với nhà văn  Dương Nghiễm Mậu để trình bày ý định làm TQBT số 55 – tháng 1-2013. Anh Đinh Cường  giới thiệu để tôi có thể đến gặp anh Nghiễm. Đây là số TQBT định mệnh. Anh Nghiễm  chia sẻ anh có một bút ký viết về Tết Mậu Thân 1968 đã bị thất tán, nếu được  xin anh THT tìm giúp. Anh Thư đã kiếm thấy ở Thư viện Đại học Yale cuốn “Địa Ngục  Có Thật” và chính chị Yến là người đã khuyến khích anh lên đường lần thứ hai để  mượn được cuốn sách này. Đây là số báo cuối cùng có chị Yến tham gia. Báo đang  làm trơn tru, anh chị dự định sẽ mang tặng bạn bè khi đến dự buổi lễ ra mắt  sách của anh Nguyễn Xuân Thiệp vào ngày 5-1-2013 tổ chức tại Virginia, thì vào  một ngày cuối năm 2012, tôi đột ngột nhận được điện thư của anh: “Chị Yến bị  stroke hôm nay. Anh phải lo cho chị. Nên tạm ngưng một thời gian. Mong em cảm  phiền.”... Như vậy cho đến hôm nay, chị đã nằm bệnh 10 năm rồi. Mười năm địa  ngục có thật trên cõi thế. Với anh. Nhưng anh đã gắng hết sức để tiếp tục con  đường đã chọn cùng chu toàn bổn phận chăm sóc người vợ hiền cho đến trước thời  đại dịch Covid-19. Thời gian đầu khi chị Yến ở nhà thì anh lo toàn bộ. Đến lúc phải  đưa chị vào nursing home (tháng 5-2015)vì bệnh trở nặng hơn, một  mình anh không thể giúp được, thì mỗi ngày hai lần anh vào thăm và mang thức ăn  Việt do chính anh nấu để chị ăn; song song đó là những số báo thật công phu,  giá trị lần lượt ra đời. Trong đó có những số với chủ đề thật “gai góc”: Phùng  Thăng và hai dịch phẩm “Những Ruồi” & “Kẻ Lạ ở Thiên Đường”, Nhà văn Hoàng  Ngọc Hiển, Nhà thơ Phạm Ngọc Lư, Nhà văn Triều Sơn và Nuôi Sẹo, học giả Nguyễn  Nam Châu... TQBT cũng giới thiệu những tạp chí xuất bản tại miền Nam trước  1975: Sáng Tạo, Khởi Hành, Trình Bầy, Hiện Đại, Mai, Văn Học, Văn Hóa Nguyệt  San, Tình Thương, Giữ Thơm Quê Mẹ, ...
              Nhưng từ khi  đại dịch Covid xảy ra đến nay thì bó tay. Bây giờ mỗi tuần anh chỉ được vào  thăm chị một lần vào ngày thứ sáu để đẩy chiếc xe tình: 
              Cửa viện mở  ra, tôi đẩy xe tình mang mình ra nắng
                    Những bụi  mai vàng, càng vàng càng thắm
                    Dưới nắng  vàng, như thoa phấn điểm trang
                (Trần Hoài  Thư – Ngủ)
              Ở nhà lòng  tôi già úa bao nhiêu
                  Bên em chiếc  xe tình làm tôi trẻ lại…
                (Trần Hoài  Thư – Xe Tình)
              Mười năm trời  không có chị và những số báo TQBT bất định kỳ vẫn tiếp tục ra mắt bạn đọc với  anh THT bao thầu từ A tới Z: chủ nhiệm kiêm chủ bút kiêm ấn công kiêm thư ký...  dù có lúc đã ngỡ không còn tiếp tục được nữa khi anh bất ngờ bị cơn bão stroke tấn  công vào tháng 6-2020. Anh Phạm Văn Nhàn vẫn đồng hành cùng anh nhưng vì ở xa  nên chỉ giúp ý kiến, đóng góp bài vở, hay phát hành báo ở Việt Nam, chứ không  thể đảm đương việc in ấn...
              Kính thưa  hai anh Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn,
                Hôm nay TQBT  đã đạt được con số 100 với 21 năm xuất bản. Một con số nằm ngoài mơ ước kể từ  khi chị Yến nằm một chỗ và hai anh mỗi người với một căn bệnh dành riêng. Với  niềm đam mê văn chương cùng ước muốn khôi phục và giữ gìn Di sản Văn chương Miền  Nam (1954-1975) cũng như trả lại cho những người cầm bút ở miền Nam, nhất là những  người Lính VNCH đã ngã xuống trên các trận tuyến, một vị trí xứng đáng, và bằng  tất cả nỗ lực, TQBT và Thư Ấn Quán đã giới thiệu với độc giả tới nay là 100 số  báo và rất nhiều tác phẩm văn học rất có giá trị, góp phần đập tan những luận  điệu tuyên truyền của “bên thắng cuộc” gán ghép, nào là văn chương thực dân mới,  nọc độc, đồi trụy, phản động, v.v... Tới nay, trong nước, đã có những luận án tiến  sĩ về Văn chương Miền Nam thời chiến và bộ sách Văn Miền Nam của Thư Ấn Quán đã  được dùng làm tài liệu tham khảo. Đó là một thành công đáng kể. Thời gian trôi  và mỗi ngày tuổi trời thêm chồng chất, em chỉ mong hai anh chân cứng đá mềm, có  đủ sức khỏe để đi tiếp những chặng đường trước mặt. 
              Trần Thị  Nguyệt Mai
                19/7/2022 –  31/7/2022