SỐ 38 - THÁNG 4 NĂM 2008

 

Thơ

Thăm bạn
24nnguon
Chiến tranh và những câu hỏi
24Bùi Thạch Trường Sơn
Tháng tư xé tờ lịch cũ

24
Phạm Hồng Ân
Dũng khí

23
Tiểu Đĩnh
Bóng chinh phu
21Trần Việt Bắc
Một đi không trở lại
18
Huỳnh Kim Khanh
Em đã vì ta
18
Vinh Hồ
Thầm lặng
18
Hoàng Mai Phi
Đường xưa
18Tôn Thất Phú Sĩ
Có những sợi tình
18Kim Thành
Sen đêm Mũi Né
21
Đỗ Phong Châu
Tìm anh
21Ái Ưu Du
Thơ & Tượng: Tóc Mây
21TM - PTP - VHT
Hồ nghi
21Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút, Tản mạn

Đứng giữa cơn bão rớt
14
Phạm Hồng Ân
Nơi chỉ xài bạc cắt
14Tầm Xuân
Giấc mơ hồi hương
14Phan Ngọc Danh
Giậu đổ bìm leo
14Cỏ Biển
Lan man quán café
13
Xuân Phương
Lục bà bà
14
Võ Thị Đồng Minh
Cũng đành
8Song Thao
Trực thăng lâm nạn
8Ái Ưu Du
Hành trình về với tuổi 20
8Hoàng Quốc Việt

Văn học, Biên khảo, Dịch thuật

Những biến cố liên quan đến sử Việt
4
Trần Việt Bắc
Thăng Long đại long mạch
4Vinh Hồ
Tổ quốc lâm nguy trước bá quyền Trung quốc
4Vinh Hồ
Sống thiện chết lành - Kỳ 11
4Ngô Văn Xuân
Thơ tuyệt mệnh Nguyễn Trung Trực
3Trần Ngọc Giang
Phiêu bạc
3Trần Ngọc Giang

Mộng còn say
3Đỗ Trường
Phiếm luận văn chương - Kỳ 5
3Huỳnh Kim Khanh
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 25
3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Giữa hai lằn đạn (13,14,15)
1Ái Ưu Du
Thằng Nèm
1
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 32

1Huỳnh Kim Khanh


 

Giũa hai lằn đạn

 

Phần Thứ Nhì - Chương   13

LÍNH TRẦM TƯ

Tiếng nói của Hoài, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vào tâm tư Đan cô lẽ. Như những giọt mật tròn. Mật đắng.

Hạnh phúc bất chợt, bé nhỏ liu riu thoáng qua nhanh, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt, nơi sơn khê ngun ngút ngàn dặm.

Biết biểu lộ tình cảm dưới dạng thức nào cho trung thực, đối với cô gái dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sốngAnh mến Hoài, từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Đan hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình. Sống giữa chốn núi rừng nầy, tâm tư anh không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, âu lo. Nhưng anh không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ trầm ngâm, lặng lẽ suy tư.

Đan đã đi Pháp từ lúc mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều về thăm quê nhà vào dịp hè, Tết. Sống ở xứ người qua nền giáo dục phương Tây, dạy cho anh tính sòng phẳng, công bằng, có óc tổ chức khoa học, phép lịch sự nhã nhặn tuyệt vời. Anh thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà mình rất thương con cháu, nhưng không chiều chuộng, không buông thả cho chúng tự do, theo ý muốn quá trớn.

Con cháu kính trọng nể sợ, thương yêu ông cha chúng một phép. Chứ có trâng trâng tráo tráo, láu cá như đám Tây con đâu. Anh sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn, được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương của gia đình. Mặc dù sống trên xứ người, văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc vô cùng. Anh vẫn nhớ thương gia đình. Nhất là thương nhớ me anh, và hoài hương xiết bao!

Sau bao năm thành đạt vinh hoa, anh vừa trở về quê nhà, mong đem kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu, ra giúp đời. Nhất là vì anh yêu binh nghiệp. Tình yêu xưa đã đem lại ngọn lửa tình, vút lên từ đôi tay anh kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin. Rồi tình yêu từ đôi tay nầy mọc cánh xa bay. Trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng. Mà thôi. Xin hãy qua đi! Xin hãy quên đi! Xin cho bình lặng tâm hồn. Anh không muốn nhắc đến tên ai, dù vô tình đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Vì...

Anh quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine, vào một chiều mưa tầm tã. Như Verlaine đã nói: “Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur”, rồi trở thành đau buốt. Bởi, anh yêu me của mình hơn bất cứ ai. Anh không muốn mẹ đau buồn, vì cô sinh viên đoan trang, và anh thư ấy là... đầm.

Anh bỗng nhớ ngôi biệt thự xinh xắn, ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu kilômét, về hướng Tây NamTừ nơi nầy, anh nhớ da diết đôi mắt xanh, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến thuở nào. Thân hình em rất hấp dẫn, quyến rũ, đã khắt sâu vào đời anh những vết dao đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến nhớ nhung.

Hai người thường hò hẹn nhau đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộngNàng thích kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà hô hào cư dân Pháp đứng lên, chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh, năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị Anh bắt bỏ tù và thiêu sống.

Anh cũng kể lại cho nàng nghe về oai danh Bà Triệu. Hai Bà Trưng nước Việt Nam. Vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi Tàu ra khỏi đất nước. Họ trị vì được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân sang Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua, nên hai bà nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử.

Cuối cùng... anh và nàng chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu, trong thành phố Lyon. Rồi có một ngày, ta sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm em nhe. Chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự. Sẽ tìm thấy nhau trong giấc ngủ muộn màng. Em ơi!

Ta có thể thay đổi tình yêu nầy, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu, nó sẽ có những dễ thương trùng hợp. Như thế, hoặc hơn thế nữa! Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết:

"Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi, quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?"

Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia. Giờ rụng đi trong đôi mắt sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút, thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Đan đắm mình trong khí ấm mùa xuân thu hút vuốt ve. Có mật ngọt và hương hoa. Có tia vui hào quang dọi sáng. Có khúc nhạc nên thơ êm mát, do gió núi trong lành lao xao nét tình xanh tươi thắm thoảng lại.

Thế rồi giờ đây ngày ngày Đan soi bóng mình, khi tỏ khi mờ, bên dòng suối lờ lợ đục chao đảo. Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần, vắt qua sườn dốc, mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá. Nước chảy róc rách trên lưng đồi, suốt thế kỷ dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa. Nghe tiếng súng đạn dày xéo suốt đêm ngày, trên quê hương điêu tàn, đổ nát. Là vết thương không trông thấy, nhói buốt đau đớn trong lòng anh.

Cuối tuần ở Minh Long. Cảnh vật nơi đây rất hoang vắng u buồn. Anh sống qua giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi. Như gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung. Buồn thương da diết, qua vệt nắng rải sau hè, rực nét tình xưa.


Phần Thứ Nhì - Chương   14

KIỀU NỮ QUÂN NHÂN

Đoàn 5 đóng tại Thị-xã Quảng Ngãi, rồi sẽ phân phối đi quanh mấy vùng lân cận như: Sa Huỳnh, Mộ Đức, Tân ThạnhTư Nghĩa. Lao xá Phú Châu thuộc liên khu V thời xưa, về hướng Tây Quận Nghĩa Hành. Cuối cùng đóng ở ven sông Trà Khúc. Không lên Minh Long. Các cô có bạn ở chốn giang đầu, tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng nha.
Buổi tối, tất cả anh chị em vào ngủ trong tiểu khu cho an toàn. Giăng mùng xong, Trúc, Hoài, vừa chui vào giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đỡ chật, thì điện cúp. Hội Trường có đòn dong, cột, kèo, đều làm bằng nhiều cây sắt to kinh khủng, tương tự như loại nhà tiền chế của Mỹ rộng lớn. Tứ bề không có cửa, chỉ phủ kín những tấm bạt thay tường. Nóc nhà lợp tăn. Những đêm di hành thường ăn bờ ngủ bụi luôn luôn. May mắn lắm, mới có chỗ ngả lưng tốt thế nầy. Thật quý hiếm. Hội Trường chứa khoảng ngàn người, lính tráng ở đâu về tạm dừng chân qua đêm nay, đông kinh khủng.

Hoài từ nhỏ ngủ riêng quen rồi, nay nằm như vậy, nên mất ngủ luôn. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, chiếm cái bàn rộng, họ dùng làm giường ngủ thoải mái. Ba cô ấy mến thương, giận hờn, xoi tì xoi tướng nhau một cách thân ái. Như các chấp chính quan ở thời kỳ La Mã, hay trong triều đình vua Tự Đức vậy.

Đang nhắm mắt mơ màng dĩ tưởng về dĩ vãng, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên. Hoài ngỡ là cô bạn nào tìm chỗ ngủ, nên nói:

- Hết chỗ rồi, bạn ơi!

Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ lên hai đầu gối nàng thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ của anh Thái, nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi. Nàng lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô cứng, sần sùi chai cứng kia chộp lấy, cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần bên. Nghe rất dễ sợ. Hoài vùng mạnh tay ra, thất thanh hét tướng lên:

- Trời ơi! Ai làm cái gì đây?

Cùng với tiếng kêu to, bóng đen hất tấm bạt qua một bên, vụt chạy biến vào đêm tối mất dạng. Cả hội trường nhốn nháo vì tiếng la hét rít lên đột ngột. Điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt nổi lên. Mấy cô gái sợ quá, dồn nhau ngồi chung trên bàn Thu Hương đã chiếm không dám hó hé.

Mặt Hoài, Trúc, tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng ban không nhịn được cười. Quả thật, hai cô sợ bị “bắt vô bưng”! Ấn tượng về bàn tay lạnh ngắt kia vẫn còn nguyên. Trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện quỷ. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hoài sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu. Thế là suốt đêm Hoài mở mắt tháo láo nhìn bóng tối, mà run.

Sáng sớm hôm sau, đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Trúc, Hoài, gửi theo xe cho Đan, Trọng: Gói trà. Cà phê chồn. Đường cát. Hai cây thuốc lá Ruby Queen. Bịch khô nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi, viết chung trong tờ thư xinh xinh, gửi đến hai người anh ở chốn giang đầu.
Thứ bảy Trúc, Hoài đi làm xa, chiều về nghe anh Lân nói:

- Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm hai em đó.

Ban đầu Trúc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết của Trúc, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục chứ đâu có lè phè mặc đồ cevil?

Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó đang giao tranh dữ dội. Làm gì có người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường? Trúc chợt nhớ lạ lùng bài ca: Biệt Kinh Kỳ của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, họ có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa khuya sớm. Họ đi giữa hai lằn đạn, trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Nghĩa Phú, Tà Noát, Ba Tơ, đã có lần Trọng hát cho Trúc nghe.
Phải không hở Trọng? Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên, ngồi trên mình con tuấn mã, ruổi rong ngàn dặm, để tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, quắc thước, tính tình cương trực, ông cưỡi con xích thố, sử dụng cây thanh long đao tuyệt hảo.

Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si, hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Anh không bắt chước Đan, lội qua sông đi tìm "cô gái Huế" ở bên kia bờ.

Mà, anh là Nguyễn văn Trọng, ở ngàn chốn sơn khê, cuối núi đầu ghềnh, xa tít tắp. Tay anh luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt, có mắt kính lồi bằng nhựa đục. Thì việc anh bắt chước Đan, lội sông rộng nước lớn đi tìm người em nhỏ bên tê sông. Hay anh vượt biên thùy xa xôi ngàn dặm sơn hà, về đây tìm gặp Trúc, là điều ở trong mơ. Nghĩ mà thêm trĩu nặng góc hồn.

Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi “pát phố”, dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy, mặt hoa da phấn. Môi thắm má hồng. Áo quần xum xoe. Họ xức nước hoa thơm ngát, đi bên lề lòng phố còn thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công, lạc giữa đám gà vịt bát nháo.

Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm với đồng áng ruộng vườn cằn cỗi. Chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Có đâu ra thì giờ nhởn nhơ tung tăng trên đường nhựa với quần là áo lụa. Họ chống cuốc đứng nhìn. Cô thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, ngẩn ngơ kéo vành nón lá sờn rách che nghiêng. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào. Chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh gay gắt diễn ra, cách đó vài mươi cây số.

Vậy, các cô gái thị thành õng ẹo “lấy le” ai đây? Sao mà lố bịch quá! Các cô vội vàng trở về con phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt cư dân thị thành. Quảng Thành mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước. Các quán ăn, Snack bar, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động mọc lên như nấm.

Người Mỹ vừa đưa những tên cố vấn đến trên quê hương nghèo nàn của chúng ta, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp ở các bar náo nhiệt tưng bừng trong các thành phố đông vui. Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng. Lòng phố xuất hiện những chàng lính Mỹ trắng, Mỹ đen, đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy họ khá sợ Quân Cảnh Mỹ luôn lái xe jeep đi rà soát quân nhân Mỹ. Họ chấp hành luật pháp nghiêm minh. Ít khi thấy Mỹ hung hăng bạo động ở thời điểm nầy.

Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, mà tiếc chi tên cúng cơm, cha mẹ đặt tên cho các cô quá khó nghe, quê mùa, khó chịu mỗi khi có người réo gọi. Thật mắc cỡ muốn độn thổ. Nên các cô tự ý làm cuộc cách mạng gia phong, cãi lời bố tổ. Thôi thì ta tự đặt cho mình những cái tên thật kêu, thật đẹp, thật mê ly, đầy hoa mỹ, êm ái ngọt ngào như mật rót vào tai. Gọi lên ngày đêm nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ... đến rụng rời.
Các bạn thả bước thong dong trên phố, mấy cô cùng ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần. Chợt có tiếng gọi:

- Hương Hoài! Tuyết Ngọc Trúc! Mai Hồng!

Mai Hồng reo lên:

- Ái chà chà. Anh Đan, anh Đan kìa!

Hoài nhận ra anh, thoáng nhìn giao nhanh, reo vui bằng mắt. Thấy Hoài nhìn, khuôn mặt Đan sạm nắng gió phong sương khuya chiều nhuốm vẻ ưu tư, dịu hẳn đi trong nụ cười ấm nồng. Nàng nhìn anh đăm đăm, cảm thấy lòng thích thích sợi tóc ương ngạnh, bỏ mái lòa xòa trên trán không đội chiếc nón sắt như mấy lần trước. Thương thương viền mi cong vút chơm chớp mắt nhìn trìu mến, ưa ưa nụ cười anh rộng mở. Thích từng khóa sol in rải rác trên áo sơ mi màu vàng nhạt, cà vạt nâu lủng lẳng kẹp cài. quần tây mầu biển đậm, và đôi giày da thời trang đen bóng.

Biết nói thế nào cho trung thực nhỉ! Lần đầu tiên, Hoài thấy Đan mặc thường phục; Dễ thương ư? Hoài không chối cãi điều đó. Tuy nhiên anh mất đi một nửa, dáng dấp hùng tráng của chàng trai đượm phong trần. Điều đó cũng đúng thôi. Nếu các anh ra trận, mà mặc áo sơ mi ca rô hoa hòe, quần nhung dạ hội. Anh có cầm súng cối súng trường, lưng nịt đầy đạn, mang giày nhung, đầu đội nón bành nhung, như thời xưa chăng nữa. Vẫn yếu xìu... Còn đánh đấm gì ai cơ chứ. Hoài thấy phục người đầu tiên, đã sáng tạo ra loại quân phục cho quân nhân mặc. Sao mà hợp tình, hợp lý thế không biết!
Đan đến bên các cô, cười thân ái. Anh hỏi:

- Các em có bận đi đâu không hở?

Tuyết Ngọc, hay tên Ngọc Thanh Trúc (Trúc đặt đủ thứ biệt hiệu mà) nhanh miệng đáp:

- Không anh. Tụi em đi tà tà.
- Vậy thì tốt. Mời vào ăn tô bún, uống ly nước nhe.

Họ quay gót theo Đan vào tiệm. Bữa ăn dẫu tình cờ nhưng đầy đủ các món. Khung cảnh ấm cúng thanh lịch. Nhạc chọn lọc mở nhè nhẹ êm êm, với bình hoa lys cắm trên bàn phủ khăn trắng, thì còn gì bằng. Có các anh: Thọ, Văn, Quân, Bảy, Hộ, Tí, Hà, Đan.
Thiếu vắng Trọng.

Phần Thứ Nhì - Chương 15

SÚNG ĐẠN VÔ TÌNH ?!

Cuộc sống tao loạn bắt đầu rơi rải rác nơi chiến trường Việt Nam sôi sục, bùng nổ từ năm 1962Nhiều vùng đất xôi thịt lẫn lộn, dọc miền Trung không phân chia ranh giới. Ngày đến. Ngày tàn. Rồi ngày lại ngày tiếp nối qua nhanh, lạnh lùng qua nhanh. Không đổi mới hơn.

Con đường cũ, mấy tháng trước đầy lá cây mượt mà tươi tốt xanh um, xôn xao gọi gió mát về rì rào bên bờ ruộng sóng lúa nhấp nhô. Cây đại thụ phủ bóng mát trên mái chùa cổ kính uy nghi cong cong, vọng ra tiếng kinh mõ trầm trầm đều đều nhịp nhàng, lẫn khói hương nghi ngút hài hòa bay cao. Làng mạc nhà cửa êm đềm nép mình ven con sông xanh uốn lượn xuôi chảy. Hàng thùy liễu quyến luyến ôm cồn cát trắng, và từng làn gió nhẹ mơn man ve vuốt ru khúc đồi thưa. Bây giờ đã khác hẳn.

Nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, xe GMC, thiết giáp đi tảo trừ, cày xới, đất đỏ ngợp trời mù bayBụi cây bờ cỏ bị đốt trụi, đen thui. Bên sườn dốc hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi dẫn đến doanh trại, chưa chắc hứa hẹn yên ổn, an vui.

Bóng chòi canh gỗ, cao chót vót. Người lính phong sương trấn giữ biên phòng, trông vô cùng đơn điệu chơ vơ trên vọng gác nơi phòng tuyến. Anh quan sát một vòng cung trách nhiệm. Đầu đội nón sắt, súng cầm tay, anh im lặng luôn ghìm chặt bá súng, mắt chăm chú quan sát tứ phía.

Trận bão lửa. Đạn pháo tầm gần tầm xa, tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, xoáy bốc, hung hăng điên cuồng hung bạo. Đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Như màn nhện đỏ ngầu gớm ghiếc trên đầu mọi người. Đêm đen ghê rợn nhờ ánh mắt hỏa châu đỏ rực luôn luôn nở rộ trên đầu nhân thế, rọi chút ánh sáng hiu hắt rồi vội vàng tắt ngúm.

Hằng chục quả đại bác không giật, đại liên nổ ầm ầm ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao. Tóe ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuộn phụt lên, bụi lửa mù trời hắc ám che khuất góc núi cao.

Sau vài giờ giao tranh cận chiến ác liệt, phe kia lùi lại dùng địa pháo rót bừa bãi vào chiến trường, bất kể hiểm nguy cho đồng bào cư dân ở vùng lân cận, hầu mong thanh toán chiến trường.

Theo đà lướt, từ chiếc phi cơ hai quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định, khá chính xác. Khiến địch im hơi lặng tiếng, nhiều ngày giờ. Nặng nề nhất vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ, bị phá, hủy diệt nơi thờ phượng thành  bia đỡ đạn. Pháo kích tan nát, tơi bời các hầm trú ẩn cư dân.

Do súng đạn chiến tranh bay qua vô tình, hay do ai cố ý cấm đoán tự do tín ngưỡng? Súng đạn làm người dân vô tội lo sợ kinh khủng và hớt hải quýnh quáng. Họ lo chạy thục mạng vào chùa chiền trú ẩn. Họ khẩn thiết cầu xin Trời Phật mở lòng từ bi độ lượng hải hà, ra tay cứu giúp con người đang sống trong cảnh chiến tranh lầm than, hãi hùng quái ác quá kinh dị. Họ nhắm tít đôi mắt, bàn tay cầm chặt chuỗi hạt, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Họ không dám nhìn cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc xám bầy nhầy, trộn với đất, cát và tro bụi. Trong tro có chất khoáng mặn, làm cho bờ môi người dân thêm mặn giọt sầu, trộn mồ hôi tang tóc điêu linh.

Khi chiến tranh dừng lại cúi nhìn: Bị bắn trực xạ, có lẽ là gần lắm, cả chục miểng nhỏ li ti ghim vào đồng đội. Đôi mắt anh Kim lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng anh Tam há hốc, nhăn răng, lưỡi dài thườn thượt. Thân hình anh Phan cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy, trước khi anh sụm xuống. Họ bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò xây xát tột độ.

Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối. Vẫn cung cách ấy, không khí ngột ngạt nặng nề, oi nồng khó thở. Khói lửa phủ chụp trên đầu. Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng. Khi chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, quay tròn lông lốc. Vun vút. Chuỗi bi thương tột cùng. Hung hăng. Kinh hoàng nhất. Bao giếng mắt đẫm lệ vĩnh viễn chia ly:
-”Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương” như Lamartine đã nói.

Dù nơi nầy, kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác. Dù cho quê hương tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc. Người; Người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi, đi mãi... lúc tháng ngày lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha. Thản nhiên trôi qua trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn.

Con đường phía trước trở thành đêm tối mịt mùPhút chốc sau đuôi xe, mặt trời nhẹ nhàng rón rén vươn lên, len lén tỏa màu hồng tươi chan hòa, xen lẫn màu đỏ thắm và màu vàng tía, như gom cả ánh sáng óng mướt đầu ngày vừa hé.
Trúc nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực phập phồng, nhấp nhô, cho nỗi đau đớn thêm thấm đẫm vào từng chân tơ kẽ tóc. Trúc tưởng lúc nầy là hoàng hôn dìu dịu, trộn lẫn bình minh tuyệt đẹp, ẩn trong các đài mây ngà ung dung bay bay, lờ lững trôi trôi trên đỉnh bình yên.
Nào ngờ...

Ái Ưu Du