SỐ 24 - THÁNG 10, NĂM 2004

 

Thư toà soạn

Thơ
Vọng phu thạch
Ngô Thái
Linh hồn sa mạc
Nguyễn Xuân Vời
Thu vịnh
Huỳnh Kim Khanh
Trăng
Phạm Hồng Ân
Chiều chớm thu
Trần Việt Bắc
Từ sông Seine đến Dương Tử
Tôn Thất Phú Sĩ
Chiếc lá rừng phong
Ngô Minh Hằng
Mấy điệu thu ca
Dã Thảo
Đùa chơi vài chữ 2 câu
Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Một chuyến đi
Trần Việt Bắc
Con rắn
Nguyên Nhi
Thu muộn
Song Thao
Tưởng như đã quên
Tôn Nữ Quỳnh Diêu
Sống gửi thác về
Trần Phương
Hạt ngủ đợi mưa
Tầm Xuân
"Một tiếng đất trời thu..."
Vũ Hoàng Thư

Biên khảo, tiểu luận
Những người tuổi trẻ của mùa trăm hoa cũ
Phan Thái Yên
Lê Đức Phi - Bà là ai
Trần Việt Bắc
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 11
Hoàng Thiếu Khanh
Cách mạng Việt ngữ
Tân Văn

Truyện dài
Thằng Nèm
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 18
Huỳnh Kim Khanh


 

Lê Đức Phi*, bà là ai ?
Ngọc Hân hay Ngọc Bình Công Chúa ?

 

* Đức Phi họ Lê, tên viết theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, mẹ của Quảng Oai công, Thường Tín công, công chúa Ngọc Ngôn và công chúa Ngọc Khuê, các con của vua Gia Long.

Như chúng ta đã biết, có khá nhiều truyền thuyết cũng như nghi vấn nói về chung cuộc của Ngọc Hân Công Chúa (NHCC). Sự thật như thế nào? Đây là một câu hỏi khó trả lời, mặc dù đã có nhiều bài viết đã đưa ra kết luận rõ ràng, tuy nhiên nếu xem lại các sử liệu và sắp xếp lại cho hợp lý, thì vẫn còn có những chỗ khúc mắc. Người viết cố gắng trình bày thêm những thiển ý của mình, may ra nghi vấn có thể sáng tỏ thêm tí nào hay chăng, dù mong manh, với hy vọng là sẽ không làm vấn đề này trở nên rối bời hơn nữa.

Trước hết xin phân loại các giả thuyết, và sau đó sẽ lạm bàn từng vấn đề theo thứ tự:
1- Ngọc Hân Công chúa và hai con là Ngọc Bảo và Văn Đức phải trốn tránh sau khi thành Phú Xuân bị đánh úp, vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) bỏ chạy gấp rút về Bắc hà và không kịp mang theo thân quyến. Thuyết này có nhiều nguồn gốc khác nhau:

• Việt Sử Tân Biên-Phạm Văn Sơn -quyển 2-trang 57 (VSTB-PVS-q2-t57) ghi lại thuyết này như sau : “Sau khi Phú-xuân thất thủ, bà cùng hai con chạy vào Quảng -Nam sau bị phát giác và xử “tam-ban triều-điển” (thắt cổ, uống thuốc độc, hay tự đâm cổ mà chết).

• ”Công Chúa Đông Đô, Hoàng Hậu Phú Xuân, Nàng là ai?”, bài viết của ông Minh Vũ Hồ Ngọc Châm trong Giai Phẩm Tây Sơn Mậu Dần 1998 (HNC): “công chúa Lê Ngọc Hân đem các con chạy trốn vào quê chồng ở Bình Định, rồi cũng bị bắt và cũng bị xử cực hình như đã nói ở trên”

• HNC: “công chúa Lê Ngọc Hân đã mang các con chạy trốn vào tận Đồng nai Gia định, nhờ đó mà tránh được tai mắt và nanh vuốt kẻ thù.”

2- VSTB-PVS-q2-t57 ghi lại thuyết này: “Sau khi vua Quang Trung qua đời, bà và hai con đã bị bí mật thủ tiêu vì sự tranh chấp ngôi vị“

3- VSTB-PVS-q2-t57: “Sau khi nhà Tây-sơn thất bại, Ngọc Hân gặp Nguyễn Ánh và do nhan sắc kiều-diễm, bà đã thành một bà phi của Thế tổ nhà Nguyễn.

4- VSTB-PVS-q2-t57: “Ngọc Hân công chúa qua đời năm 1799, dưới triều Cảnh Thịnh, khi triều Tây Sơn chưa sụp đổ.”

Với những truyền thuyết như đã nêu trên, cái nào đúng? Đây quả là một vấn đề khó khăn cho lớp hậu sinh muốn tìm hiểu rõ về lịch sử nước nhà. Những nghi vấn này đã để lại những chướng ngại về một giai đoạn lịch sử quan trọng cho hậu thế. Sử gia Phạm Văn Sơn đã phải viết như sau:

VSTB-PVS-q2-t58 : “Mặc dầu chúng ta có một số sử liệu trong tay, cái chết của Ngọc-Hân đến nay vẫn là một nghi vấn lịch sử. Người ta đã đưa ra quá nhiều giả thuyết khiến ta phải buồn mà nghĩ rằng một việc mới xảy ra khoảng trên 160 năm mà các nhà chép sử đã mờ mịt, thân thế và sự nghiệp của một nhân vật khá quan trọng về văn học cũng như về chính trị như Ngọc Hân mà bị các nhà chép sử xao nhãng đến như vậy thì cái quan-niệm viết sử của triều Nguyễn thật là đáng trách vô cùng. Đến nay hậu sinh chúng ta phá đám sương mù về vụ Ngọc Hân không phải là điều dễ”.


A- Thuyết thứ nhất : Ngọc Hân công chúa và hai con phải trốn tránh sau khi Phú Xuân thất thủ.

Theo như VSTB-PVS-q2-t58 thì thuyết này “thuộc ông Ngô tất Tố trong cuốn “Thi văn bình chú” và thuộc ông Phan trần Chúc trong cuốn “Triều Tây-sơn” nói về việc công chúa và hai con chạy vào Quảng Nam” .
“Việt sử khảo luận”- Hoàng Cơ Thụy -Nhà xuất bản Nam Á, Paris năm 2002 (VSKL-HCT) -q2-t802 : -”Đến năm 1802 khi Nguyễn vương Ánh ra đánh chiếm Bắc Hà, thì bà Ngọc Hân và hai con (khoảng 15 và 13 tuổi) trốn xuống Quảng Nam, sau bị bắt; bà bị ép uống thuốc độc chết, hai con bị thắt cổ (Bà Phương Lan, Anh thư nước Việt)”.

Trong bài “Công chúa Đông Đô” của HNC, thuyết này đã được tóm tắt lại như sau:
“Những truyền thuyết và chuyện dã sử về chung cục của công chúa Lê Ngọc Hân thuộc loại thứ nhất thì đại thể về nội dung đều giống nhau, có khác biệt là chỉ khác biệt về địa điểm đi lánh nạn mà thôi. Sau khi nhà Tây Sơn mất, công chúa Lê Ngọc Hân đem hai con chạy trốn vào Quảng nam, sống trà trộn trong dân chúng được một thời gian, cuối cùng bị phát hiện, bị bắt đưa về Phú Xuân và bị xử án tam ban triều điển.
Nhiều truyền thuyết khác thì nói rằng công chúa Lê Ngọc Hân đem các con chạy trốn vào quê chồng ở Bình Định, rồi cũng bị bắt và cũng bị xử cực hình như đã nói ở trên. Trong những thập niên 60, 70 lại có những câu chuyện ly kỳ hơn về chung cục của công chúa Lê Ngọc Hân, cả thành văn lẫn truyền khẩu, theo đó thì công chúa Lê Ngọc Hân đã mang các con chạy trốn vào tận Đồng nai Gia định, nhờ đó mà tránh được tai mắt và nanh vuốt kẻ thù. Nhiều câu chuyện truyền miệng lại còn đi xa hơn, kể rằng sau khi nuôi dạy các con khôn lớn nên người, công chúa đã thí phát, tu hành đắc đạo và trở thành Giáo chủ của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương”.

Theo như thiển ý của người viết, giả sử bà Ngọc Hân và hai còn còn sống lúc này thì bà chả dại gì mà về Bình Định, bà ắt hẳn phải biết tại nơi này, con cháu và thân thuộc của nhà Tây Sơn đang bị truy lùng gắt gao. Phong thái của hoàng hậu, hoàng tử và công chúa sẽ không qua mắt được ai và sẽ bị nhà Nguyễn bắt ngay. Vậy thuyết NHCC mang hai con chạy trốn về Bình Định là chuyện khó tin. Cùng trong bài viết này tác giả nói thêm về giả thuyết là bà Ngọc Hân và hai con vào Đồng Nai đất Gia Định và v.v (độc giả có thể đọc nguyên bài của ông HNC trong “web site” nơi phần tham khảo). Ông HNC nói rõ là những thuyết này không phù hợp với lịch sử, chính người viết cũng cảm thấy đây là chuyện “vẽ rắn thêm chân” cho những truyền thuyết có sẵn. Tuy nhiên việc bà chạy vào Quảng Nam vẫn còn là một câu hỏi. NHCC có mang hai con đi trốn tránh không?
Để trả lời cho câu hỏi này, người viết xin trích dẫn những đoạn văn có tính cách xác định như sau:

HNC: “Về phần hai người con của công chúa Lê Ngọc Hân thì một nhà truyền giáo Tây phương thời bấy giờ tên là L. Barizy đã cho biết là cả hai đều bị Nguyễn vương bắt lúc thành Phú Xuân thất thủ, không kịp chạy theo vua Cảnh Thịnh ra Bắc hà. Giáo sĩ L. Brarizy đã nhận diện và không tiếc lời ca ngợi khuôn mặt tuấn tú và thái độ cứng cỏi của hai đứa trẻ khi bị xử tử hình vào năm 1802, cùng một lần với vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Như vậy, hai người con của công chúa Lê Ngọc Hân đều đã bị yểu vong thì làm gì có câu chuyện hậu duệ của công chúa còn nối dõi tới bây giờ.”

Trong bài “Hãy trả lại trong sáng cho NHCC” của ông Nguyễn An Phong (NAP) : “Trong bức thơ đề ngày 16 tháng 7 năm 1801 của Barizy, một sĩ quan người Pháp, tháp tùng cùng Nguyễn Ánh vào chiếm Phú xuân đã ghi lại như sau: “Nhà vua (Nguyễn Ánh) bảo tôi đi xem mặt các cô công chúa của kẻ tiếm vị (Quang Trung). Tôi đến đó họ ở trong một phòng hơi tối, không phải là một phòng sang trọng, có tất cả năm công chúa: một cô 16 tuổi theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái của bà Công chúa Bắc kỳ (Ngọc Hân) em này cũng coi được, còn ba cô nữa cũng từ 16 đến 18 tuổi thì nước da hơi nâu nhưng diện mạo cũng dễ thương. Ngoài ra còn có 3 con trai, có một em độ 16 tuổi cũng da nâu nhưng nét mặt thì tầm thường, còn em trai kia độ 12 tuổi là con của bà công chúa Bắc kỳ thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương”. Như vậy ta thấy rằng khi Barizy đến tận nhà giam để kiểm nhận và xem mặt tất cả các hoàng tử, công chúa quan lại và gia đình của các quan lại cao cấp của Tây Sơn đã bị Nguyễn Ánh bắt tại Phú xuân có rất nhiều phụ nữ nhưng tuyệt nhiên ta không thấy ghi có mặt Hoàng hậu Ngọc Hân mà ông ta đã gọi là Công chúa Bắc kỳ.

Căn cứ vào các đoạn văn trên, có thể nói là hai con của NHCC đã không trốn thoát khỏi tay quân nhà Nguyễn, khi Phú Xuân thất thủ quá nhanh, họ đã bị giam giữ (1801) và bị giết năm 1802. Lúc này Ngọc Bảo 13 tuổi và Văn Đức 12 tuổi (”Danh nhân Lê Ngọc Hân- Chu Quang Trứ (CQT)): “... Ngọc hân đã sinh với vua được con gái đầu lòng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm Canh Tuất (4-6-1790), rồi hoàng tử Văn Đức vào giờ Mão ngày 14 tháng Giêng năm Tân Hợi (27-2- 1791”). (Ngọc Bảo và Văn Đức sinh cách nhau 8 tháng 23 ngày ?)

Câu hỏi được đặt ra là lá thư này có đáng tin cậy không? Theo như hai đoạn trích dẫn trên thì ta thấy đây là hai lá thư khác nhau. Bài của ông NAP nói về lá thư ngày 16 tháng 7 năm 1801, trong thư này chỉ viết về việc các hoàng tử và công chúa bị bắt. Thư này của Barizy, một sĩ quan người Pháp (tên ông này là L. Barizy, người gởi thư cho Chaigneau, và vẽ lại bản đồ trận chiến Thị Nại ngày 1 tháng 3 năm 1801). Bài của ông HNC có lẽ đã dẫn chứng từ lá thư khác, viết về việc tử hình năm 1802 vì thư này diễn tả sự việc sau năm 1801 (Tuy ông HNC viết là thư này của nhà truyền giáo có tên là L. Barizy, nhưng người viết nghĩ ông ta là Sĩ quan Pháp, vì ông này viết khá nhiều thư kể về các sự kiện xảy ra, cách làm việc của ông giống như phóng viên chiến trường ngày nay) .

Trong quyển “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam” của Tạ Chí Đại trường (TCĐT), trang 335-336 :
“Ba giờ chiều ngày 3 tháng 5 (1801), ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân (1), Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang Thiệu, Thái sư Quang Khanh cùng đại Tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn, Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự, Quang Diệu của Thực Lục).

Từ những tài liệu này, ta có thể xác định là hai con của NHCC đã không thoát, bị bắt (1801), và bị giết (1802) khi còn quá trẻ. Ngọc Hân công chúa ở đâu lúc này? Bà đã chết hay còn sống?

Để bổ túc cho những dẫn chứng trên, xin trích một đoạn trong bài viết của ông CQT: “Hơn nữa bộ sách chính sử của nhà Nguyễn Đại Nam Thực Lục nhân năm 1842 phá hủy đền thờ Ngọc Hân ở Phù Ninh có ghi: “Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có người con gái là Lê Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ, sinh được 1 trai và 1 gái, Ngọc Hân chết, con trai, con gái cũng chết non cả”.
Người viết chưa có được may mắn để đọc Đại Nam Thực Lục, tuy nhiên, từ câu trên, ta có thể hiểu (ngầm) là khi con trai (Văn Đức), con gái (Ngọc Bảo) chết non thì NHCC đã chết trước rồi, mặc dù câu viết không xác định thời điểm rõ ràng.

Từ những dẫn chứng trên, truyền thuyết về việc Ngọc Hân Công Chúa dẫn hai con là Ngọc Bảo và Văn Đức đi trốn sau khi Phú Xuân thất thủ năm 1801 chỉ là chuyện vô căn cứ và hoang đường.


B- Thuyết thứ hai : “bà và hai con đã bị bí mật thủ tiêu vì sự tranh chấp ngôi vị“

Có hay không chuyện tranh chấp giữa các hoàng hậu về ngôi vua cho con của mình?

Thuyết này được nói tới trong Việt Sử Tân Biên-Phạm Văn Sơn-q2-t58: “do ông Thái văn Kiểm đưa ra trong buổi thuyết trình tại trường Đại-học quân-sự Sàigòn ngày 31-3-1961“

Sử gia Phạm Văn Sơn cho rằng giả thuyết này không vững “vì nhà vua mất năm 1792 là giai đoạn triều Tây-sơn đang thịnh đạt từ trong ra ngoài. Cho tới năm 1795 là lúc có sự lục đục của các đại thần của Phú Xuân, chính sử cũng như dã sử là cửa miệng thế gian chưa hề phát giác một âm mưu chính trị nào về phần bà vợ miền nam của Quang Trung với quốc phó Bùi Đắc Tuyên là anh cùng mẹ khác cha để sát phạt phe bà Ngọc Hân gồm có bà và một số đại thần hay tướng lĩnh..”

Để có thể kiểm chứng giả thuyết này, việc tìm hiểu thêm về chuyện gia đạo của vua Quang Trung là một sự cần thiết và sử liệu là phương tiện để minh chứng. Tuy nhiên những sử liệu về nhà Tây Sơn lưu truyền lại cho hậu thế quá ít ỏi, hơn nữa sự thật về người anh hùng Nguyễn Huệ và gia đình của ông, nếu không bị làm sai lệch, thì cũng bị lấp liếm dưới ngọn bút lông của Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Khá nhiều nghi vấn lịch sử cũng như truyền thuyết đã được đặt ra về đời Tây Sơn, làm cho hậu thế không biết đâu là sự thật của lịch sử.
Ông Quách Giao ngay trong phần đầu của sách “Nhà Tây Sơn” trong “Lời thưa” đã giải thích về sự sai lạc trong sử liệu như: thiếu thành thật ( Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu,v.và), ở xa như miền Bắc (trường hợp “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Văn Gia Phái), sự đàn áp khốc liệt của chính quyền (nhà Nguyễn), nên người dân không dám nói lại rõ sự thật.

Để tìm hiểu sự thật của lịch sử, một số tác giả đã đăng những bài viết và sách rất có giá trị về nhà Tây Sơn. Tuy nhiên những sử liệu được nêu ra lại không giống nhau, làm độc giả muốn tìm hiểu thêm về những nghi vấn này, lại càng thêm mù mịt.

Trở lại vấn đề, chúng ta hãy thử tìm hiểu thêm về tiểu sử của các bà hoàng hậu dưới triều vua Quang Trung.
Trong bài viết của ông Hố Ngọc Châm (HNC), có một đoạn viết về hoàng hậu họ Phạm, có thể tóm tắt về đoạn này như sau:
Theo Tây Sơn Tiềm Long Lục thì bà tên là Phạm thị Liên, anh em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên.
Ba người con trai của bà họ Phạm :

Quang Toản: (con cả, còn có tên là Quang Bình, vua Cảnh Thịnh)
Quang Bàn (Tuyên Công Lãnh Đốc trấn Thanh Hóa)
Quang Thiệu (Thái Tể)

Hai người con gái là:

Một người lấy Phò mã Nguyễn văn Trị
Một người thì gả cho Nguyễn Phước Tư là tôn thất nhà cựu Nguyễn

Bà mất ngày 29-3-1791, truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ Hoàng Chính Hậu .

Trong bài viết này, không thấy nhắc đến tên Quang Thùy, một người con của vua Quang Trung, đã tự tử sau khi Thăng Long thất thủ được nhắc tới trong “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” cũng như trong nhiều sử liệu khác. Vậy Quang Thùy là con của bà nào? Chắn chắn là không phải con của NHCC vì bà này chỉ có hai con là Ngọc Bảo và Văn Đức. Rồi tên Quang Bình, có nhiều sử liệu nói đây là tên của Nguyễn Huệ chứ không phải của Quang Toản (Theo như sách “Nhà Tây Sơn” thì Nguyễn Huệ có tên là Quang Bình bởi lý do: “Vì ông Nhạc kết duyên với bà Trần Thị Huệ, nên để tránh trùng tên với chị dâu, gia đình mới gọi tên ông Huệ là Bình”). Vậy “Tây Sơn Tiềm Long Lục “ có thiếu sót gì không?

Người viết xin phép để trích dẫn một đoạn nói về các bà hoàng hậu và các con của vua Quang Trung trong sách “Nhà Tây Sơn” của ông Quách Giao, PDF file:
Trang 46:
“Ông Huệ có ba bà vợ chính thức: bà họ Phạm ở Phú Phong, mẹ ông Nguyễn Quang Thùy, bà họ Bùi ở Xuân Hòa, mẹ ông Nguyễn Quang Toản và bà Ngọc Hân công chúa con gái Vua Lê . Lúc ông Huệ trấn thủ Thuận Hóa thì bà họ Phạm qua đời đã lâu, bà họ Bùi theo chồng ra Phú Xuân, còn bà Ngọc Hân thì còn ở Thăng Long”.

Trang 58:
“Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước.
….
Tổ chức chánh quyền trung ương.
Vua Quang Trung có ba bà vợ chính thức:
- Bà họ Phạm [73] ở thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, mất sớm, sanh hạ được hai trai là Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn.
Bà họ Phạm mất rồi, nhà vua kết duyên cùng bà họ Bùi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê). Bà họ Bùi là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và hai người con gái
- Ngọc Hân công chúa mới có một con.
Quang Thùy và Quang Bàn lúc bấy giờ đã 17, 18 tuổi.
Quang Toản mới 9, 10 tuổi. Con Ngọc Hân mới 2 tuổi.
Vua Quang Trung phong bà họ Bùi làm Chánh Cung Hoàng Hậu, bà NgọcHân làm Bắc Cung Hoàng Hậu và lập Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Bà họ Phạm được truy phong là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chánh Hậu, phong cho Quang Thùy làm Khanh Công Linh Bắc Thành, Tiết Chế Thủ Bộ Chư Quân, phong cho Nguyễn Quang Bàn làm Tuyên Công Linh Thanh Hóa Đốc Trấn, Tổng Lý Quân Dân Sự Vụ. Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong là An Nam Quốc Vương Thế Tử. Vua Quang Trung sai sứ đem biểu sang tâu rằng Thùy là con dòng thứ. Càn Long nghe theo, phong Toản làm An Nam Quốc Vương Thế Tử thay Thùy. Có người bất bình, ngỏ ý cùng Nguyễn Quang Thùy, Thùy nói:- Em tôi hay tôi làm Thái tử cũng thế thôi. Điều cốt yếu là làm thế nào cho nước Đại nam được mỗi ngày thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi thêm vững bền, là tốt.
Hàng trí thức đương thời khen là Đại nhân.Quan chế vẫn tương tợ như cũ. Đại khái trên thì có Tam công là Thái Sư, Thái phó, Thái bảo; Tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không; Đại đô đốc, Đại đô hộ. Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Lục bộ Thượng thư... Thị lang, Tư vụ.

Trang 104:
[73] Theo cụ Bùi Văn Lang thì bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam), cùng mẹ khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Đắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm Hoàng Hậu và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đã lầm, vì bà họ Phạm và bà họ Bùi còn miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Hòa.

Ông Quách Giao viết khá rõ, chỉ tiếc là ông không viết về ngày qua đời của các bà hoàng hậu này. Bà thứ nhất là hoàng hậu họ Phạm, ông đã xác định là “cụ Bùi đã lầm” trong ghi chú số 73 trang 104, và chỉ nói là bà mất sớm sau khi đã sanh Quang Thùy và Quang Bàn. Bà được truy phong là hoàng hậu, khi vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) (Ngày vua Quang Trung xưng đế: theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim). Vậy là bà mất trước khi vua Quang Trung xưng đế. Sau khi bà mất thì nhà vua mới lấy bà họ Bùi, mẹ của Quang Toản. Quang Toản sinh năm 1780, lên ngôi năm 1793 khi mới được 13 tuổi . Vậy có thể nói là hoàng hậu họ Phạm qua đời trước năm 1780 vài năm (người viết phỏng đoán là 1778).

Bà thứ hai là hoàng hậu họ Bùi, nhà vua cưới bà này sau khi bà họ Phạm qua đời, bà này có tới 5 người con. Nếu Quang Toản là con lớn nhất, thì có lẽ nhà vua cưới bà khoảng năm 1778 hay 1779. Ngày qua đời của bà không thấy ông Quách Giao nhắc đến. Vậy bà qua đời khi nào? Tìm ra câu trả lời, thì sự giải đáp cho giả thuyết “tranh chấp ngôi vị” của các bà hậu có lẽ sẽ khá dễ dàng.

Trong bài viết của ông HNC có một đoạn nói về lá thư của giáo sĩ Girard như sau:
“Theo các tài liệu của Phái bộ Truyền giáo Nam Hà, nhất là lá thư của giáo sĩ Girard đề ngày 25-11-1792 gởi giáo sĩ Boiret ở Macao, thì khi hoàng hậu lâm bệnh, vua Quang Trung đã cho mời thầy thuốc người Âu đến chữa bệnh và đến khi hoàng hậu mất thì nhà vua đau đớn vật vã đến phát điên phát cuồng. Bà mất ngày 29-3-1791 mà mãi đến ngày 25-6 năm đó mới đưa đi chôn cất. Bà được truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chính Hậu”.

“Lịch sử nội chiến ở Việt Nam” của Tạ Chí Đại trường, trang 272:
“Người con gái Bắc hà 16 tuổi đó cũng biết nhược điểm của anh hùng nên đã dùng thế lực riêng của mình mà ảnh hưởng tới quyết định của Nguyễn Huệ khi đòi phế tự hoàng Lê Duy Kỳ, lập Sùng Nhượng công Duy Cẩn, khi thì đòi ngược lại, “mếu khóc”, vuốt ve tự ái đấng trượng phu. Tình cảm mềm yếu cũng tỏ rõ mấy năm sau, khi Quang Trung “điên cuồng lên” vì một người vợ mất ở Phú Xuân(2)
----
(2) Thư Labartette gởi cho Letondal 6-10-1797 (A. Launay, III, t 244)”.

Tài liệu của Phái bộ Truyền giáo Nam Hà, thư của giáo sĩ Girard và đoạn trích dẫn nói rõ là có một bà hoàng hậu chết năm 1791, khi vua Quang Trung đang ở ngôi (1788-1792) . Như đã trình bày ở trên, bà họ Phạm qua đời trước năm 1780. Vậy thì người qua đời ngày 29 tháng 3 năm 1791, phải là bà hoàng hậu họ Bùi, mẹ của Quang Toản.
Tuy nhiên sách “Nhà Tây Sơn”, cũng như bài viết của ông HNC đều nói tước hiệu “Nhân Cung Đoan Trinh Thục Như Vũ Hoàng Chính Hậu” là vua Quang Trung truy phong cho bà hoàng hậu họ Phạm. Vậy sự việc như thế nào? Bà họ Phạm chết năm 1791? Mâu thuẫn về chuyện các bà hậu trong sách “Nhà Tây Sơn”?
Tới chỗ khúc mắc này thì chúng ta phải dùng nhận xét để phán đoán, đồng thời để kiểm chứng lại sự việc.
Chữ“truy phong”hay “truy tặng” chỉ dùng khi nào người đó đã qua đời. Vua Quang Trung truy phong tước Vũ Hoàng Chính Hậu cho một người vợ đã khuất, lúc này, năm 1788, (khi Nguyễn Huệ vừa xưng ngôi là hoàng đế Quang Trung), nhà vua vẫn có hai bà hoàng hậu đang sống bên cạnh, một bà hoàng hậu sẽ qua đời năm 1791, là bà họ Bùi, như đã được nói tới trong những dẫn chứng bên trên, và bà hoàng hậu kia là Ngọc Hân công chúa mà vua Quang Trung cưới năm 1786 khi ra Bắc hà, điều này đã được viết rõ ràng và đồng nhất trong tất cả các sử liệu. Nếu vậy, sách “Nhà Tây Sơn” không có điều gì mâu thuẫn mà còn rất hợp lý, vì ông Quách Giao nói rõ đây là tước hiệu truy phong cho bà họ Phạm mà không nói là truy phong cho bà họ Bùi. Vậy, câu viết: “Bà được truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chính Hậu” trong bài viết của ông HNC, có lẽ không cần thiết vì có thể nhầm người. Đến lúc này tước hiệu truy phong cho bà họ Bùi người viết vẫn chưa thấy sử liệu nào nói đến, có lẽ vì thất lạc, hay chưa được truy phong (vua Quang Trung qua đời ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16-9-1792) sau bà này một năm, hoặc vì người viết chưa đọc đủ sử liệu.

Để bổ túc cho lập luận nêu trên, người viết xin lạm bàn về việc lập thái tử của vua Quang Trung. Trong chiếu của vua Càn Long, khi phong vương cho vua Quang Trung thì đồng thời cũng phong thế tử cho Quang Thùy, nhưng sau đó vua QT lại gởi biểu văn xin đổi chức thế tử lại cho Quang Toản (con bà họ Bùi). Vua Quang Trung, mặc dù là tay anh hùng vô địch và oai nghiêm, nhưng đối với những bà vợ mà ông thương yêu thì lại rất yếu mềm. Khi công chúa Ngọc Hân khuyên ông đừng lập Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống) làm vua, mà lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Vỹ (Cẩn?) là anh cả của công chúa Ngọc Hân, ông bằng lòng. Rồi vì sự đe dọa của các hoàng thân họ Lê (đòi xóa tên công chúa trong dòng họ), công chúa lại năn nỉ cho Duy Kỳ lên làm vua, ông cũng lại đổi ý. Vậy lý do Quang Thùy là con trưởng không được làm thái tử, chắc cũng vì lời của bà họ Bùi “ỏn thót” bên tai nhà vua về ngôi thái tử của con mình, mặc dù khi Quang Trung qua đời (1792), Quang Toản lúc đó mới chỉ là một cậu bé (13 tuổi) và Quang Thùy đã khá lớn tuổi (23 tuổi). Vì thiếu hậu thuẫn (không còn mẹ là bà họ Phạm) và vì lời của người đàn bà được nhà vua yêu thương, nên Quang Thùy đã mất ngôi thái tử.

Trong phần phụ lục của sách “Nhà Tây Sơn”, bài “Ảnh hưởng của nhà Tây Sơn trong dòng họ Quách” của Quách Tấn (PDF file, trang 95) viết như sau:
“Nếu vua Quang Trung đừng nghe lời bà họ Bùi truất ngôi thái tử của con trưởng dòng đích là Nguyễn Quang Thùy đã được vua Càn Long phong thế tử, thì ngôi cửu ngũ đâu có lọt vào tay Nguyễn Quang Toản con dòng kế, mới 13 tuổi, khiến sanh việc lủng củng trong triều, làm cho thế nước mỗi ngày một yếu”.

Bà hoàng hậu họ Bùi này là ai? Có bà này hiện diện trong triều Tây Sơn hay không?

Không thấy tài liệu nào nói rõ, ngoại trừ trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin 1999 (VNSL-TTK) - có nói sơ qua một cách gián tiếp như sau:
VNSL-TTK-t411: “ Vua Cảnh Thịnh tuy đã lên ngôi nhưng mà việc gì cũng do ở Thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái hậu, cho nên uy quyền lại càng hống hách lắm.”
Trong Việt Sử Khảo Luận của ông Hoàng Cơ Thụy VSKL-HCT-q2-t802 cũng nhắc qua như sau:
“Huệ đã có vợ nguyên phối họ Bùi, sinh một trai năm 1783 đặt tên là Nguyễn Quang Toản, sau còn hai trai nữa là Quang Thùy và Quang Thiệu (...).

-Sau khi Huệ tự xưng làm Quang Trung hoàng đế tháng 12/1788, phá tan 20 vạn quân Thanh tháng 1/1789, thì phong bà Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Chắc bà vợ họ Bùi được phong làm Nam Cung hoàng hậu”.

Có lẽ là ông Hoàng Cơ Thụy không biết về bà họ Phạm nên nói Quang Thùy là con bà họ Bùi, và “Nam Cung Hoàng Hậu” là do ông đoán ra.

Sách “Nhà Tây Sơn” của ông Quách Giao, mặc dù tác giả đã nói đây không phải bộ sử về nhà Tây Sơn, nhưng theo thiển ý, có lẽ sách này đưa ra nhiều tài liệu nhất. Gia đình nhà văn Quách Tấn và con là Quách Giao đã từng ở đất Bình Định, có nhiều liên hệ tới nhà Tây Sơn (phần phụ chú cuối sách), nên những tài liệu đưa ra có tính cách khá khả tín. Vậy chúng ta thử xem sách “Nhà Tây Sơn” (PDF file) nói gì về họ Bùi.

Trang 9 :
“Ông Huệ về nhà kết duyên cùng bà Phạm Thị Liên, người thôn Phú Phong huyện Tuy Viễn”.
Trang 22:
“Bùi Đắc Lương , một cự phú thôn Xuân Hòa huyện Tuy Viễn. Ông Lương sanh ba trai là Bùi Đắc Chí, Bùi Đắc Trung, Bùi Đắc Tuyên và hai gái là Bùi thị Loan, Bùi thị Nhạn. Bùi thị Xuân là con Bùi Đắc Chí gọi Bùi thị Nhạn bằng cô, nhưng Bùi nữ tướng lớn tuổi hơn”.

Vậy bà hoàng hậu họ Bùi này có tên là Bùi Thị Loan. Bà Bùi Thị Nhạn là em nhưng lại là nữ tướng dưới trướng Bù i thị Xuân nên không thể là Hoàng Hậu.

Trang 64 có nói về thái sư Bùi đắc Tuyên Như sau:
“Bùi Đắc Tuyên là người làng Xuân Hòa huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Qui Nhơn, cậu ruột vua Cảnh Thịnh. Dưới triều vua Quang Trung. Tuyên nhờ thế em gái làm hoàng hậu (83) mà được làm quan trong triều. Vì ít học nên chỉ được làm Thị Lang bộ Lễ, nhưng lại được phép ra vào nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò chơi để vui lòng Thái Tử”

Trang 105:
“(83) Tuyên là anh ruột bà hoàng hậu họ Bùi, là anh con bác ruột của Bùi thị Xuân” . Chỗ này có lẽ ghi lầm, Bùi Đắc Tuyên là chú ruột bà Bùi Thị Xuân.

Qua những trích dẫn trên thì tiểu sử của bà hoàng hậu họ Bùi đã khá rõ:

Bà là con của ông Bùi Đắc Lương, là cô ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân và là em ruột của thái sư Bùi Đắc Tuyên

Để đi đến kết luận cho giả thuyết này, người viết xin tóm tắt lại như sau:
Vua Quang Trung có bà vợ lớn là hoàng hậu họ Phạm (Phạm Thị Liên) mẹ của Nguyễn Quang Thùy, qua đời khoảng năm 1778 hay trước đó, được truy phong là Nhân Cung Đoan Tĩnh Nhân Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chính Hậu khi vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế năm 1788.
Vua Quang Trung lấy bà họ Bùi làm vợ kế, bà là Chánh Cung Hoàng Hậu mẹ của vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) sau khi bà họ Phạm đã qua đời.

Năm 1792, khi Thái tử Quang Toản lên ngôi vua, hai bà hoàng hậu họ Phạm và họ Bùi đã tạ thế, chỉ còn Bắc Cung Hoàng Hậu đang sống là Ngọc Hân Công Chúa (bà viết bài “Ai Tư Vãn” khóc vua Quang Trung). Vậy chuyện tranh giành đã không bao giờ xảy ra. Giả thuyết “ Ngọc Hân Công Chúa và hai con đã bị bí mật thủ tiêu vì sự tranh chấp ngôi vị” không đứng vững và phải bị loại bỏ.

Thuyết thứ 3: Công chúa Ngọc Hân thành một bà phi của Thế tổ nhà Nguyễn ?

Theo sử gia Phạm Văn Sơn, giả thuyết này được đưa ra do ông Việt Thường trong bài “Les caprices du génie du mariage ou l'extraordinaire destinée de la Pricesses Ngọc Hân” (Những sự oái oăm của Nguyệt-lão hay là số kiếp ly kỳ của Ngọc Hân công chúa). Bài này được đăng trong “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Đô-thành hiếu cổ) số 4 phát hành 1941 (xin xem phần phụ chú).
Đại ý bài này nói là vua Gia Long gặp Ngọc Hân Công Chúa tại kinh thành Phú Xuân năm 1801, và nhà vua đã lấy bà này làm phi, dù có lời can ngăn của Lê Văn Duyệt.
Có lẽ ông Phạm Việt Thường “theo hai câu ca dao của thời nhân bấy giờ :
Số đâu có số lạ lùng
Con vua mà lấy hai đời chồng vua”

(VSTB-PVS q2-t60) và một số sử liệu để tiểu thuyết hóa sự việc chăng?

Mở đầu bài “Công chúa Đông Đô, hoàng hậu Phú Xuân, nàng là ai?”, ông Minh Vũ Hồ Ngọc Châm (HNC) viết như sau:
“Trên dưới hai trăm năm nay, trong dân gian thường truyền tụng câu ca dao:

Gái đâu có gái lạ đời
Con vua lại lấy hai đời chồng vua”
.

Tuy hai câu ca dao lời có khác đôi chút nhưng ý giống nhau. Cũng trong bài này ông viết:

“Nhưng độc đáo hơn hết, phải kể đến bản gia phả của họ Nguyễn hoàng tộc. Đó là cuốn Hoàng Triều Ngọc Phả, bản quốc ngữ, do Tôn Nhân Phủ biên soạn và ấn hành dưới triều vua Thành Thái. Trong cuốn sách này, ở các chương nói về Quảng Oai công và Thường Tín Quận vương con vua Gia Long, rõ ràng mẹ đẻ của ngài được ghi là Công chúa Lê Ngọc Hân, con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Thật là rõ ràng và chính xác như một cộng một là hai, như hai cộng hai là bốn, không còn bàn cãi gì nữa cả. Người viết đã chính mắt được đọc những dòng chữ đó vào năm 1988 tại nhà nhạc phụ, sách do ông Tôn Thất Yên đưa cho mượn. Ông Tôn Thất Yên lúc bấy giờ là người được hội đồng Nguyễn Phước tộc ủy thác điều hành công việc thường ngày của Hội đồng Nguyễn Phước tộc ở Sài gòn, và được hội Trung Việt Ái hữu ủy thác trông nom quản lý nghĩa trang Gò Dưa, Thủ đức”.

Sự việc lại càng rắc rối hơn nữa khi ông HNC đưa ra dữ kiện này. Mặc dù chính ông không đồng ý và đưa ra giải thích như sau:

“Xin thưa ngay rằng cuốn gia phả này là bản quốc ngữ, không phải bản hán văn, lại không phải do Quốc sử quán biên soạn mà là tác phẩm phiên dịch của Tôn Nhân Phủ từ bản hán văn cũng của Tôn Nhân Phủ mà ra, mà bản hán văn này thì trong các chương nói về Quảng Oai công và Thường Tín Quận vương đã viết rằng mẹ các ngài là công chúa Lê Ngọc, con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Cái lối hành văn cổ điển bằng Hán tự thì có khi nào nêu rõ tục danh đâu. Mà tác giả bản Hán văn khi viết rằng mẹ các ngài là công chúa Lê Ngọc, con vua Hiển tông nhà Hậu Lê, thì đã chắc đâu muốn khẳng định rằng đó là công chúa Lê Ngọc Hân. Biết đâu tác giả bản Hán văn muốn nói đến một nàng công chúa Lê Ngọc khác, cũng con vua Hiển tông nhà Hậu Lê? Mà điều này thì những người phiên dịch ra quốc ngữ đã không hề hay biết, lại thêm nặng tình tân học, viết lách trình bày việc gì cũng muốn tách bạch rõ ràng nên đã phiên dịch nhóm chữ "Công chúa Lê Ngọc, con vua Hiển tông" thành "Công chúa Lê Ngọc Hân, con vua Hiển Tông" theo sở kiến chủ quan của mình”.

Người viết đồng ý với ông HNC là dịch thuật để đưa đến vấn đề sai lầm, đặc biệt là về tên khi người dịch có ý tưởng chủ quan . Tuy nhiên mấy ai mà có may mắn được đọc và hiểu cả nguyên bản lẫn bản dịch để kiểm chứng vấn đề.
Vậy đâu là sự thật?
Chuyện vua Gia Long lấy một người công chúa họ Lê, người công chúa này có phải là hoàng hậu như câu ca dao“ Con vua mà lấy hai đời chồng vua” hay không?
Đời của Ngọc Hân công chúa có xảy giống như bài viết với tính cách tiểu thuyết hóa của ông Phạm Việt Thường hay không?
Căn cứ vào các tài liệu thì chuyện này có thật hay chăng?
Sự việc phải kết luận như thế nào?

Để hy vọng có câu trả lời, người viết xin phép nêu vài tài liệu cần thiết:

Trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1997. Bản dịch bởi các nhà Hán học như các ông Hoa Bằng, Đỗ Mộng Khương, Ngô Hữu Tạo, Cao Huy Giu, Nguyễn Trọng Hân

Tập 2, quyển 2: -Truyện của các hoàng tử- Các con của Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long), trang 66 có viết như sau:

“Quảng Uy công tên là Quân:- Con thứ mười của Thế tổ, mẹ là Đức Phi họ Lê. Năm Gia Long thứ 16 phong là Quảng Uy Công.
...
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) là năm Kỷ Sửu mùa hạ, ông bị bệnh đậu chết, mới 21 tuổi....tên thụy là Công Trực....
Ông không có con thừa tự.

Cũng trang 66 viết :
“Thường Tín công tên là Cự: -Con thứ 11 của Thế Tổ (Gia long), là em cùng mẹ với Quảng Uy Công tên là Quân. Năm Gia Long thứ 16 phong là Thường Tín Công. Buổi đầu năm Minh Mạng, coi việc thờ tự Long Thành thái trưởng công chúa. Năm Tự Đức thứ hai (1849) mùa hạ ông mất, thọ 40 tuổi, tên thụy là Ôn Tĩnh. Ông có 7 con trai, 11 con gái, con thứ ba là Thường Đổng, năm Tự Đức thứ 8 (1855 ) phong là Vĩnh Ân đình hầu; con thứ năm là Thường Lâu, năm ấy cho tước là Trợ Quốc khanh”.

Cũng tập 2, quyển 3: -Truyện của các công chúa - Các con của Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long), trang 74 có viết như sau:

“An Nghĩa Công Chúa Ngọc Ngôn:-Con gái thứ 10 của Thế tổ, là em gái cùng mẹ với Quảng Uy Công tên là Quân. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), gả cho Lê Văn Yên là con cả Lê Văn Phong làm con thừa tự Lê Văn Duyệt. Năm thứ 16 (1835) việc án của Duyệt phát ra, Yên bị tội phải xử tử. Năm Tự Đức thứ 7, phong là An Nghĩa thái thái trưởng công chúa. Năm thứ 9 (năm Tự Đức thứ 9, 1856) , chúa mất thọ 53 tuổi, tên thụy là Trinh Lệ, có 3 con trai”.

Cũng trang 74 viết :

“Công chúa Ngọc Khuê: - Con gái thứ 12 của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), gả cho vệ úy Nguyễn Văn Thiện là con thứ của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), chúa mất, tuổi 21, tên thụy là Trinh Ý. Năm thứ 9 (1828), Thiện chết, có một con trai”.

Người viết xin tóm tắt lại từ các đoạn tài liệu nêu trên như sau:

Bà Lê Đức Phi có 4 người con với vua Thế Tổ (vua Gia Long) :

1- An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn ( 1803-1855): 53 tuổi.
2- Công chúa Ngọc Khuê (1807-1827): 21 tuổi.
3- Quảng Uy công Quân (1809-1829): 21 tuổi.
4- Thường Tín công Cự (1810- 1849): 40 tuổi.

Như đã trình bày ở trên, giả thuyết này nói bà Đức Phi họ Lê chính là Ngọc Hân Công Chúa. Để chống lại giả thuyết này nhiều người nói đây là một bà công chúa khác, tên là Lê Ngọc Bình, cũng là hoàng hậu và là vợ của vua Cảnh Thịnh. Vua Gia Long đã lấy bà này làm phi, bà đã không kịp chạy theo vua Cảnh Thịnh khi Phú Xuân (Huế) thất thủ năm 1801.
Vậy bà Lê Đức phi này là ai? Ngọc Hân hay Ngọc Bình Công Chúa ?

Người viết xin trích dẫn vài hàng về tiểu sử của Ngọc Hân Công Chúa trong bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân” của ông Chu Quang Trứ, vì theo thiển ý, đây có lẽ là tài liệu có nhiều chi tiết nhất:

“Bài vị bà (Nguyễn Thị Huyền) ở đền thờ tại Phù Ninh (nay là làng Ninh - Gia Lâm - Hà Nội) ghi rõ: “Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị Húy Huyền, hiệu Thiện Trung sinh giờ Dậu ngày mồng 3 tháng 10 năm Quý Dậu (28-10-1753), mất giờ Hợi ngày mồng 1 tháng 8 năm Quý Mùi (1823), thọ 71 tuổi. Bà Huyền sinh công chúa Lê Ngọc Hân vào giờ Sửu ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (22-5-1770)”.
….
Ngọc Hân vào Phú Xuân sống hạnh phúc bên chồng. Cuối năm 1788 được tin quân Thanh xâm lược đã chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế để chính danh tiến quân ra Bắc, phong Ngọc Hân làm Hoàng hậu ở tộc phả họ Nguyễn Đình ghi là Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu. Sau khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vào đầu xuân Kỷ Dậu lại trở về Phú Xuân, và Ngọc hân đã sinh với vua được con gái đầu lòng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm Canh Tuất (4-6-1790), rồi hoàng tử Văn Đức vào giờ Mão ngày 14 tháng Giêng năm Tân Hợi (27-2- 1791)
….
Bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ố Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi”
.

Nét đại cương các sử liệu giống nhau, ngoại trừ chuyện chung cuộc của Ngọc Hân công chúa .

Về Ngọc Bình Công Chúa thì VSTB-PVS-t60-q2 viết: “người đàn bà đẹp mà Gia Long gặp ở Phú Xuân là ai? Ông Bửu Kế trong Bách-Khoa số 101 ngày 15-6-1961 sau khi tra cứu các pho Ngọc-điệp của nhà Nguyễn đã trả lời người đó là Lê Thị Bình, con út của vua Lê Hiển Tông tức là em bà Ngọc Hân. Bà này sinh với Gia Long hai con là Quảng Oai và Thường Tín quận công, duy ông Bửu Kế không phát biểu chi tiết để ta có thể hiểu sao lại có cuộc hôn nhân giữa bà Lê Thị Bình với vua Gia Long vào năm 1801, giữa lúc chiến dịch Phú Xuân đang rất gay go.
….
Tóm lại, chiếu theo các sự kiện kể trên bài của ông Việt Thường chỉ sai một điểm là lầm bà Ngọc Hân ra bà Ngọc Bình. Ông Bửu Kế nhận rằng vua Gia Long lấy bà Lê Thị Ngọc-Bình sinh ra hai con đã rọi thêm được một vài tia sáng”.


Vậy theo ông Bửu Kế, bà Đức Phi họ Lê này là công chúa Lê Thị Ngọc Bình, tuy nhiên, như ông PVS viết, ông Bửu Kế đã không phát biểu thêm, nên chưa đi đến kết quả có tính cách xác định.

Trong bài “Công chúa Đông Đô”, ông HNC đã nói tới công chúa Ngọc Bình với khá nhiều chi tiết như sau:
“Theo các tài liệu do ty Văn hóa Nghĩa Bình công bố, vua Cảnh Thịnh và công chúa Lê Ngọc Bình đồng trang lứa với nhau. Vua Cản Thịnh sinh năm 1783, đúng như Đại Nam Chính Biên Liệt truyện và các phúc trình của các giáo sĩ Longer và Le Labousse gởi cho Phái bộ Truyền giáo Nam Hà đã ghi chép. Như vậy, ngày công chúa Lê Ngọc Hân vầy duyên cá nước với Tiết chế Nguyễn Huệ (1786) thì công chúa Lê Ngọc Bình mới có 4 tuổi. Đến năm Bính Ngọ (1792), vua Quang Trung mất, vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, cả nhà vua lẫn công chúa mới được 10 tuổi. Thời gian này cả hai đang ở tuổi trúc mã thanh mai. Những năm tiếp theo là những năm Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền nên chắc chắn là công chúa Lê Ngọc Hân dù đã có ý định vẫn chưa thể thực hiện việc kết hợp sắt cầm cho em gái với con chồng. Phải đợi đến sau chính biến năm Ất Mão (1795), phe cánh Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị dẹp tan, công chúa Lê Ngọc Hân mới có điều kiện thu xếp đưa em gái lên ngôi Chính cung Hoàng hậu.
Lúc này, các bề tôi thân tín lục tục trở về triều, công chúa Lê Ngọc Hân củng cố lại thế lực trong chốn nội đình và có ảnh hưởng quyết định đến công việc triều đình, thì cũng là lúc công chúa Lê Ngọc Bình vừa được 13 tuổi. Như vậy, công chúa Lê Ngọc Hân đối với công chúa Lê Ngọc Bình thì vừa là chị ruột, vừa là mẹ chồng. Cả hai đều là công chúa Đông đô con vua Hiển tông nhà Hậu Lê. Cả hai đều trở thành Hoàng hậu Phú Xuân, công chúa Lê Ngọc Hân là Bắc cung Hoàng hậu của Thái tổ Vũ Hoàng đế, công chúa Lê Ngọc Bình là Chính cung Hoàng hậu của vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Đến năm Kỷ Mùi (1799), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7, công chúa Lê Ngọc Hân mất, công chúa Lê Ngọc Bình vừa được 17 tuổi. Đến năm Tân Dậu (1801), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9, kinh thành Phú Xuân thất thủ, vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc hà không kịp mang theo gia quyến, thì công chúa Lê Ngọc Bình chỉ có 19 tuổi, nếu tính tuổi theo lối ngày nay thì công chúa Lê Ngọc Bình chỉ mới 18 tuổi mà thôi. Chính vào thời điểm này Đại Nguyên súy Tổng Quốc chính Nguyễn Phúc Ánh gặp công chúa Lê Ngọc Bình và năm sau, tức là năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn vương lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, và sắc phong công chúa Lê Ngọc Bình là Đệ Tam cung, năm ấy công chúa Lê Ngọc Bình vừa tròn 20 tuổi”.

Ông HNC cũng nói về lúc Nguyễn Vương gặp Ngọc Bình công chúa là năm Ất Sửu (1801), giống với lý luận của ông PVS trong VSTB q2-t60 như sau:

“... bà Ngọc-Bình chỉ có thể gặp vua Gia Long ở Phú Xuân mà thôi bởi không thấy sử liệu nào nói Gia Long ra Bắc hà rồi lấy một công chúa họ Lê nhất là trước đó 10 năm vua Chiêu Thống chạy qua Tàu, hoàng gia thất tán đi đâu hết thì làm thế nào mà có được sự tao phùng giữa Gia Long và một nàng Công -chúa của họ Lê tại xứ Bắc?
Hơn thế nữa sử chép Nguyễn-Ánh đánh úp kinh đô Phú Xuân. Thủy sư đột nhập cửa Tư Dung tháng 5 năm Tân Dậu (11-6-1801) và thu phục được đô thành sau ba ngày chiến đấu ráo riết và ác liệt.
Tóm lại, chúng tôi cũng đề kết rằng bà Lê thị Bình là con gái út của vua Lê Hiển Tông nhưng là vợ của vua Cảnh Thịnh (tức là bố lấy chị, con lấy em), như vậy mới hợp với câu:
“Con vua mà lấy hai chồng làm vua”.
Ông Việt Thường nêu ra tất có sự thật và có cả sự thật là lời can gián của Lê ăn Duyệt.

Ở đây ta thấy thêm nữa là yếu tố thời gian tỏ rõ là Gia Long gặp bà Lê thị Bình tại Phú Xuân đúng vào năm 1801 và lúc này Cảnh Thịnh vừa chạy ra Bắc để tính mưu khôi phục
Chúng tôi, sau khi đối chiếu và tổng hợp các sử liệu nhận thấy rằng bài của ông Việt Thường và các điều văn của Phan Huy Ích là những bằng cớ rất đáng chú ý để kết luận như trên, tuy rằng chúng tôi vẫn chỉ đưa ra một giả thuyết do không kiếm ra được tài liệu nào chính xác hơn nữa.
…. Mong các bạn đọc góp thêm ý kiến nếu có, may ra nghi vấn về bà Ngọc hân được thêm chút ánh sáng nào nữa chăng?”.

Để góp thêm ý kiến, và để bổ túc cho lập luận mà ông PVS cũng như ông HNC đã đưa ra, người viết thử nêu lên những nhận xét như sau để may ra có thể đi đến kết luận: Bà Đức Phi họ Lê không thể là Ngọc Hân Công Chúa.

1- Trong bài “Ai tư vãn”, Ngọc Hân Công Chúa đã nói lên tâm sự riêng của bà sau khi vua Quang Trung qua đời là “Quyết liều mong vẹn chữ tòng” để chết theo nhà vua nhưng vì con còn thơ dại (Ngọc bảo 2 tuổi, Ngọc Đức 1 tuổi) “con trứng nước thương vì đôi chút”, nên “chữ tình thâm chưa thoát được đi”, và “hình tuy còn ở, phách thì đã theo”. Những câu viết ra như những lời thề với “đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho”.
Năm 1802, nếu bà còn sống mà thấy cảnh Quang Toản, các con của mình, cũng như các hoàng tử và công chúa bị hình phạt 5 voi xé xác, cùng các võ tướng nhà Tây Sơn bị giết thì bà đã tự tử chết theo, hay bà có thể trở thành “Đệ Tam cung” của Nguyễn Ánh, an hưởng phú quí và sinh cho Gia Long thêm bốn người con ?

2-Nói về vấn đề tuổi tác, Lê Đức Phi sinh Thường Tín công Cự năm 1810. Nếu bà Đức phi là Ngọc Hân công chúa thì lúc này bà đã 41 tuổi. Ở tuổi này liệu bà vẫn còn được Gia Long sủng ái, trong khi bên cạnh ông còn biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ khác. Chuyện một ông vua sủng ái một bà phi 41 tuổi có thể xảy ra, nhưng khó tin. Nếu Đức Phi là Ngọc Bình thì chuyện dễ tin hơn vì lúc này bà mới 28 tuổi.

3-Trong bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân”, ông Chu Quang Trứ viết như sau:
“Vẫn theo tộc phả họ Nguyễn Đình và kết hợp truyền thuyết địa phương, thì vào khoảng thời gian đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị, có người trong làng tố giác việc thờ cúng này, vua Thiệu Trị đã cho phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm, quật mộ ba mẹ con Ngọc Hân, đổ hài cốt xuống sông - nơi này sau dân lập đền ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức. Bộ sử Đại nam thực lục năm 1842 cũng xác nhận: “Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy”.
Từ năm 1842 dinh Thiết Lâm bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là “Vườn Dinh” và dựng lên đây Một “Miếu cô hồn” kín đáo thờ Ngọc Hân”.

Lúc này -1842- Công chúa An Nghĩa Ngọc Ngôn (1803-1855) , Thường Tín công Cự vẫn còn sống (1810-1849) họ là cô và chú của vua Thiệu Trị, nếu bà Lê Đức Phi là Ngọc Hân, thì họ có để cháu quật mộ của mẹ mình không. Hơn nữa chả lẽ vua Thiệu Trị nỡ quật mộ vợ ông nội mình, triều đình nhà Nguyễn lại quật mộ bà phi của Thế Tổ, điều này trái với đạo lý cho một triều đình theo Nho học. Việc này đã được ghi vào sử nhà Nguyễn thì chuyện đào mộ một bà phi của Thế Tổ không thể xảy ra. “Kẻ Ngụy” không thể là bà Lê Đức Phi này.

4- Năm bài văn tế của ông Phan Huy Ích trong Dụ Am Văn Tập, để tế Bắc Cung Hoàng Hậu là tài liệu quan trong nhất để xác định Ngọc Hân Công Chúa qua đời năm 1799, lúc nhà Tây Sơn chưa bị mất (người viết sẽ đi vào chi tiết trong phần tới). Bà qua đời 2 năm trước khi Gia Long chiếm Phú Xuân.

Để chứng minh, một sự kiện có thể không đủ sức thuyết phục, tuy nhiên, từ nhiều sự kiện tương quan cùng những tài liệu dẫn chứng thì tới đây, ta có thể đi đến kết luận là bà Lê Đức Phi mẹ của Quảng Oai Công, Thường Tín Công, hai công chúa là Ngọc Ngôn và Ngọc Khuê không phải là Ngọc Hân Công Chúa.

Vậy Lê Đức Phi là Ngọc Bình Công Chúa?
Bà này là hoàng hậu, vợ của vua Cảnh Thịnh?
Sử liệu về tiểu sử của vị công chúa họ Lê tên là Ngọc Bình rất là ít. Năm 1802, khi bị bắt Quang Toản đã 20 tuổi (sinh năm 1783), ở tuổi này, chắc chắn ông vua trẻ này đã có vợ (mà có thể còn có nhiều). Tới lúc này người viết vẫn chưa tìm thấy sử liệu nào nói về bà hoàng hậu (?) vợ của vua Cảnh Thịnh (Quang Toản).

Trong các dẫn chứng bên trên từ VSTB-PVS-q2-t60, ông Bửu Kế chỉ nói người mà vua Gia Long gặp là Lê Thị Bình, con út vua Lê Hiển Tông, em Ngọc Hân Công Chúa, nhưng sử gia Phạm văn Sơn thì “đề kết” bà Lê Thị Bình là vợ của vua Cảnh Thịnh:
“ông Việt Thường nêu lên tất có sự thật và có cả sự thật là lời can gián của Lê Văn Duyệt khi vua Gia Long lấy bà Lê Thị Bình như sau: “…..Xin bệ hạ tha tội cho chúng tôi, mặc dầu người đàn bà ấy đẹp thế nào nhưng vẫn là vợ của kẻ thù nghịch” “

Ông HNC viết : Chỉ từ sau năm 1975, ty thông tin Văn hóa Nghĩa Bình ấn hành và phổ biến một số tài liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp các nhân vật đời Tây Sơn, chúng ta mới bắt đầu chú ý các nhân vật như Lê Ngọc Bình, là công chúa con vua Hiển tông nhà Hậu Lê và là Chính cung Hoàng hậu vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản.
Theo các tài liệu do ty Văn hóa Nghĩa Bình công bố,à” và ông HNC cũng đã nói khá rõ về tiểu sử của bà Lê Ngọc Bình. Tuy nhiên ông viết là năm 1795, Ngọc Hân Công Chúa (Bắc Cung “Thái hậu”?) đưa em mình lên ngôi chính hậu. Công Chúa Lê Ngọc Bình cũng như Quang Toản mới 13 tuổi mà đã có hôn nhân? Trên danh nghĩa chăng? Người viết chưa được đọc tài liệu này, nên chỉ dám tự hỏi nhưng không dám lạm bàn.

Vậy bà Lê Ngọc Bình (hay Lê thị Ngọc Bình) là vợ của Nguyễn Quang Toản. Tuy nhiên bà là chính cung hoàng hậu, hay là phi tần của vua Cảnh Thịnh hay không thì không rõ, nhưng bà Lê Ngọc Bình đã trở thành một trong những bà phi của Nguyễn Ánh từ năm 1801 và khi lên ngôi hoàng đế, Gia Long đã phong bà này là Đệ Tam Cung- Đức Phi họ Lê. Những sự kiện này có lẽ đã giải thích được câu ca dao “Con vua mà lại lấy hai đời chồng vua”.

Trước khi sang phần tới, người viết xin trích dẫn một về một nhận xét rất tinh tế của ông HNC : “Hành động của vua Gia Long không phải là hành động của con người bình thường tiếc ngọc thương hoa.. là một hành động tâm lý chiến sâu sắc của một chính trị gia bậc thầy, một hành động có tính toán kỹ lưỡng và khôn ngoan tuyệt cùng”.

D- Thuyết thứ 4: “Ngọc Hân công chúa qua đời năm 1799”

Trước khi lạm bàn về giả thuyết này, người viết xin gom lại những kết luận từ những phần trước:

1. Ngọc Hân Công Chúa và hai con là Ngọc Bảo và Văn Đức không hề đi trốn sau khi Phú Xuân thất thủ năm 1801. Ngọc Bảo và Văn Đức đã bị quân Gia Định bắt sống.
2. Ngọc Hân Công Chúa và hai con không hề bị thủ tiêu vì sự tranh chấp ngôi vị.
3. Ngọc Hân Công Chúa không phải là bà Lê Đức Phi, Ngọc Bình Công Chúa - em của Ngọc Hân Công Chúa- là bà Đức Phi họ Lê, người đã trở thành phi tần của vua Gia Long sau khi Phú Xuân thất thủ.

Qua những trình bày trên, có một câu hỏi khác được đặt ra là Ngọc Hân Công Chúa ở đâu khi Phú Xuân thất thủ năm 1801?

Trong trích dẫn ở phần trước (mục A), LSNCVN-TCĐT trang 335-356, nói về việc các quan văn võ nhà Tây Sơn ra hàng, việc viên sĩ quan người Pháp là Barizy đi thăm các thân quyến nhà Tây Sơn trong tay quân Nguyễn , ông ta đã không đề cập gì đến Ngọc Hân Công Chúa, dù nói rất rõ về con của bà. Vậy năm 1801, bà đã không có mặt tại thành Phú Xuân. Rồi năm 1802, bà cũng không có tên trong những người bị bắt khi Thăng Long thất thủ.

Câu trả lời là Ngọc Hân Công Chúa đã qua đời năm 1799 dưới triều vua Cảnh Thịnh khi nhà Tây Sơn chưa sụp đổ. Đây là thuyết của ông Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm.

VSTB-PVS-q2-t58:
“Căn cứ vào 5 bài điếu văn của Phan huy Ích trong Dụ Am thi-tập và nhiều sử sách khác. Ngọc-Hân mất vào năm Kỷ Mùi (1799).

Theo ông ngày 11 (Trung-đông) năm Kỷ Mùi (1799) triều đình nhà Tây Sơn làm lễ tru tôn bà là Như Ý Trang Thận Trinh Nhất Hoàng Hậu. Bằng cớ là 5 bài điếu văn do danh nho Phan Huy Ích đã thảo, một cho vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) một cho các công chúa con vua Quang Trung, một cho bà Nguyễn Thị Huyền thân mẫu bà Ngọc Hân, một cho các tông thất nhà Lê và một cho bà con bên ngoại trong lễ tế bà Ngọc Hân”.

Sách “Nhà Tây Sơn” (PDF file), trang 72:
“Được tin Qui Nhơn thất thủ, Cảnh Thịnh định thân chinh. Nhưng gặp tang Ngọc Hân, nên tạm hoãn, truyền Nguyễn Văn Giáp vào giữ sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi và Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ra giữ Quảng Nam (Kỷ Mùi 1799)”

Trong bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân”, ông PGS Chu Quang Trứ viết như sau“

“Bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ố Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi“


Xin trích dẫn vài hàng trong mỗi bài điếu văn để dẫn chứng:

VSTB-PVS-q2-t33: (Bài điếu văn cho vua Cảnh Thịnh đọc)
“Kỷ-mùi đông, nghĩ Ngự-điện Vũ Hoàng-hậu tang quốc âm văn” (mùa đông năm Kỷ-mùi (1799) nghĩ đỡ nhà vua bài văn quốc-âm để tế điện Vũ Hoàng-hậu):
“Than ôi!

Nguyệt in phách-quế, mái trường-thu (1) vừa giãi vẻ làu làu. -Sương ủ hồn hoa; miền thượng-uyển (2) chợt phai mùi thoảng-thoảng (3).
“Nẻo chân-du (4) quạnh-quẽ biết đâu tìm! -Niềm vĩnh-mộ (5) bâng-khuâng hằng chạnh tưởng!

...

VSTB-PVS-q2-t41:

“CÔNG CHÚA CHƯ NHA ĐIỆN VĂN

(Đọc trong dịp tang Vũ Hoàng-hậu năm Kỷ -mùi 1799)

Than ôi! Đóa thượng-uyển hây hây đua nở (7), giọt sương ngưng mà hiu-hắt màu hoa (8)! vầng thái-âm (9) vằng vặc sáng lòa, hơi vụ ngất dễ mịt mờ bóng quế (10)!
“Nhẽ đổi thay máy Tạo khôn dò,
- Cơn tan hợp đoạn tình kể xiết!
Nẻo thuở Doành Hoàng phô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân (1).
Trải phen bến Vị đưa duyên (2), phím sắt xoang cầm vầy một thể (3).
…”

“(Phiên âm theo bản chữ nôm
trong DỤ-ÂM VĂN-TẬP chưa in ra quốc ngữ bao giờ)”

Sách “Nhà Tây Sơn” (PDF file), trang 72 (sách này chỉ in hai câu để dẫn chứng) :

“Trong các bài tôn thất nhà Lê:

Hẳn non Lam khí vượng đã tàn rồi
Nên vườn Lãng hoa tươi mà vội thế.
…”

Những bài điếu văn này có thể bị giả mạo hay không? Chúng ta có thể kiểm chứng sự việc qua nội dung của những bài điếu văn này, đặc biệt là trong bài viết cho vua Cảnh Thịnh, sau phần tế Bắc Cung Hoàng Hậu là một bài “dụ” của nhà vua, rất hợp với tình cảnh của nhà Tây Sơn sau khi Qui Nhơn bị thất thủ.
“Rày nhân:
“Cách bánh liễu dư),-Bày hàng thể-trượng ).
“Nhìn khâm-vệ trạnh ngưng mỗi vẻ, đường u-hiển xa lìa !-Dâng điện-diên gọi giãi mấy nhời, mối luân-thường sáng tỏ.
“Hỡi ôi! Cảm thay!”

“ Nhật hiểu Qui-nhơn phủ: Quan, Quân, Dân thứ đẳng tri:
“Tướng vâng quyền chế ngoại dẹp lửa binh mà trợ lấy dân lành.- Người sẵn tính giáng trung , cởi lưới ngược lại noi về đường thuận.
….
“Đoàn ngoại vũ lung-lăng quen thói, nương thế đèo, đến Bến Đá chia ngăn,- Kẻ khổn ư dáo-dở nên lòng, phụ ơn nước, chốn thành vàng phút bỏ !

Theo ghi chú của ông Phạm Văn Sơn (VSTB-q2-t39):

“Vì bấy giờ thành Qui-nhơn thất thủ, có quân Cựu-Nguyễn đóng án ngữ, nên đường lối từ đèo Bến Đá đến Qui-Nhơn không liên lạc với nhau được.
Chỉ việc Bảo đem thành Qui-nhơn xuống hàng Cựu-Nguyễn.

Vậy năm bài điếu văn trong Dụ Am Văn tập của ông Phan Huy Ích là một sử liệu rõ ràng. Ngọc Hân Công Chúa qua đời năm 1799 không còn là một giả thuyết, mà là một sự thật lịch sử.

Để kết luận, người viết xin cảm đề:

Ngọc Hân Công Chúa

Thương cảm thay! Công Chúa Ngọc Hân
Nửa đường gãy gánh, xót duyên phần
Anh hùng “thọ tứ tuần”* trôi mộng
Thục nữ “ai tư vãn”* tủi thân
Hậu thế câu ngâm lời thống thiết
Nhân gian nước mắt giọt tần ngần
Bắc Cung Hoàng Hậu người tài sắc
Nào biết Tây Sơn mất Phú Xuân !

Trần Việt Bắc
7/15/2004


*Ngọc Hân Công Chúa viết biểu chúc mừng vua Quang Trung thọ tứ tuần năm 1792 và bài “Ai Tư Vãn” khóc nhà vua sau khi ông qua đời .

Tham khảo:

- Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện- Quốc Sử Quán Triều Nguyễn- Nhà xuất bản Thuận Hóa- Huế -1997.
- Việt Nam Sử Lược- Trần Trọng Kim- Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin-1999.
- Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam- Sàigòn 1961.
- Việt Sử Khảo Luận- Hoàng Cơ Thụy- Nhà xuất bản nam Á-Paris- 2002.
- Quang Trung Nguyễn Huệ- Hoa Bằng- Nhà xuất bản Đại Nam.
- Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802- Tạ Chí Đại Trường-PDF file- Thư Viện Tiếu Lùn- http://tieulun.hopto.org:25000/
- Nhà Tây Sơn- Quách Giao- PDF file- Thư Viện Tiếu Lùn-http://tieulun.hopto.org:25000/.
- Hoàng Lê nhất thống chí- Ngô gia văn phái-
http://www.informatik.uni-leipzig.de/Ạduc/sach/hoangle/
- Hãy trả lại trong sáng cho Ngọc Hân Công Chúa- Nguyễn An Phong-http://www.lebichson.net/Binhdinh/03Ngochancongchua.htm
- Công Chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân, Nàng là ai?-Minh Vũ Hồ Ngọc Châm-http://www.lebichson.net/Binhdinh/03Hoanghauphuxuan.htm
- Danh nhân Lê Ngọc Hân- PGS Chu Quang Trứ- http://home.no.net/tptruong/vanhoc/ddlnh.htm

Phần Phụ chú:
1- Điếu Văn của Phan Huy Ích (hai bài):

Việt Sử Tân Biên
Saigon 1961
Phạm Văn Sơn
Quyển 4
Nhà xuất bản Đại Nam

Trang 33

Phụ Lục

Chúng tôi ghi chép ra đây một số tài-liệu bằng chữ Nho có bản dịch ra tiếng Nôm để minh chứng việc xảy ra là có thực, hoặc để độc giả dùng trong các sách văn học.
Trong thế hệ chúng ta, nhiều việc chinh chiến thường xảy ra, các sử liệu nay còn được coi là hiếm hoi và quý giá, vậy cho in vào đây xét ra không vô ích. Mong các bạn thông cảm.

“Kỷ-mùi đông, nghĩ Ngự-điện Vũ Hoàng-hậu tang quốc âm văn” (mùa đông năm Kỷ-mùi (1799) nghĩ đỡ nhà vua bài văn quốc-âm để tế điện Vũ Hoàng-hậu):

“Than ôi!
Nguyệt in phách-quế, mái trường-thu (1) vừa giãi vẻ làu làu. -Sương ủ hồn hoa; miền thượng-uyển (2) chợt phai mùi thoảng-thoảng (3).

“Nẻo chân-du (4) quạnh-quẽ biết đâu tìm! -Niềm vĩnh-mộ (5) bâng-khuâng hằng chạnh tưởng!
----------------------

(1) Tên một cung, chỗ ở của Hoàng-hậu. Sau dùng để chỉ Hoàng-hậu: nói lập cung trường-thu cũng như nói lập Hoàng-hậu.
(2) Vườn hoa nhà Vua.
(3) Hai vế này ý nói: bà Ngọc-Hân được lập làm Hoàng-hậu mới ít lâu, đang rực rỡ như vầng trăng vằng vặc, thì đóa thiên-hương bỗng tàn tạ (tức là bà chết), làm cho vườn ngự mất thơm!
(4) Chỗ đến chơi thật, chỉ chỗ người chết đến ở.
(5) Tấm lòng trìu mến lâu dài mãi mãi.

Trang 34
“Giọt ngân phái (1) câu nên (2)vẻ quí, duyên hảo-cầu (3) thêm giúp mối tu-tề (4). -Khúc Thư-châu (5) thổi (?) sánh tiếng hòa, khuôn nội-tắc (6) đã gây nền nhân-nhượng (7).

“Rành rành bút đỏ (8) đua thơm,-Chói chói sách vàng (9) tỏ rạng.

” Hồ Đỉnh (10) ngậm-ngùi cung nọ (11) sắp rắp (?) chìm châu nát ngọc đã từng nguyền
Cung khôn (12) bận-bịu gối nao (13) ếp vì (?) vun quế quén lan nên hãy gượng (14).
---------------------

(1) Giọt nước ở sông nhà trời. Ý nói bà Ngọc Hân là dòng giống nhà vua họ Lê.
(2) Cũng như “gây nên”.
(3) Chữ trong thơ QUAN-THƯ ở kinh THI: cái duyên thục-nữ sánh đôi với quân-tử thật là đẹp đẽ.
(4) Tu-thân và tề-gia. Ý nói Vũ Hoành-hậu giúp Vũ Hoàng-đế trong việc nội trị.
(5) Khúc hát “Chim quan-thư ở bãi sông” túc là thơ QUAN- THƯ đầu thiên QUỐC-PHONG trong khi THI tả nỗi vui-hòa mà có riêng biệt.
(6) Khuôn mực người đàn bà theo đúng lễ nghi và đức-hạnh như đã nói trong thiên NỘI TẮC ở kinh LỄ.
(7) Một người có nhân làm cả nước dấy lòng nhân, một người biết nhường làm cả nước có lòng nhường.
(8) Do chữ “đồng quản” là “bút quản đỏ”. Người xưa cầm bút quản đỏ chép những chuyện phụ-nữ đáng để khuyên răn.
(9) Do chữ “kim sách” là sách phong các vị hậu, phi xưa.
(10) Do chữ “đỉnh hồ”. Trong sử ký PHONG THIỀN THƯ có chép: Vua Hoàng-đế đúc xong cái vạc (đỉnh) ở dưới núi Kinh-sơn thì cỡ rồng lên tiên. Người sau gọi chỗ đó là Đỉnh hồ. Đời nhân dùng để chỉ cái chết của vua chúa.
(11) Do chữ “di cung. Vua chết rồi chỉ có cái cung để lại, khiến cho mọi người thấy cung mà ngậm ngùi. Ý nói vua Quang Trung đã mất.
(12) Quẻ Khôn tượng-trưng về đàn bà. “Cung Khôn” tức là Hoàng-hậu. Đây chỉ Vũ Hoàng-hậu.
(13) Vương -víu có mấy con nhỏ dưới gối.
(14) Hai vế này ý nói: khi vua Quang Trung mất đi, Vũ Hoàng-hậu khôn xiết bùi-ngùi đau đớn, những toan tự tử (chìm châu là trầm mình; nát ngọc là hủy hoại thân thể) để theo chồng, nhưng vì dưới gối bà còn hai mụn con thơ, nên phải gượng gạo sống để chăm-nom nuôi nấng con (vun quế, quén lan) vậy.

Trang 35

“Tự xung linh (1) hay gìn giữ hiếu tư (2), Vâng từ-đức (3) cũng thỏa vui vinh dưỡng (4).

“Nối tiên-chí (5)vậy dốc bề trí kính (6), dấu sân huyên đòi chốn sum vầy (7).

“Cảm mẫu-nghi (8) mà thay đổi thừa hoan (9), vẻ áo vi xưa kia mường tượng (10).

“Mong thẻ tiên trùng trập thêm cao (11)-Hiềm máy tạo so le khôn lượng (12).

“Sương nắng bấy chầy ngăn trướng thúy, băn khoăn cơn bữa ngọc, lò đan (13).-Gió mây xẩy phút lối xe loan, khơi diễn nẻo non Bồng, vườn Lãng (14)
---------------------

(1) Từ tuổi thơ-ấu
(2) Giữ lòng hiếu-thảo, nhớ nghĩ đến cha đã mất.
(3) Được thừa thuận cái đức hiền-từ, ý nói được sum-vầy dưới gối Vũ Hoàng-hậu. Bà Ngọc-Hân tuy lấy lẽ vua Quang-Trung nhưng khi ngài lên ngôi thì được lập làm Bắc-cung Hoàng-hậu ngang hàng với chính cung Hoàng-hậu Phạm-Thị, người Qui-nhơn, mẹ đẻ vua Cảnh-Thịnh. Bấy giờ vua Cảnh-Thịnh coi bà vào hàng “mẹ” nên bài văn tế này mới nói là “từ đức”, vì theo lễ bà là thứ mẫu.
(4) Lấy cái quí hiển của người làm vua mà phụng-dưỡng, gọi là “vinh dưỡng”.
(5) Noi theo ý-chí của người trước, tứ Vũ Hoàng-đế.
(6) Làm cho đến nơi tấm lòng hiếu kính.
(7) Do chữ kinh THI nói trong cỏ huyên (ta gọi là cây hoa liên), nơi bắc đường là chỗ mẹ ở, nên tha thường dùng “nhà huyên” hay “sân huyên” để chỉ mẹ. Ý nói nhiều con mừng được sum-vầy với Vũ Hoàng-hậu.
(8) Cảm phục cái khuôn phép của mẹ.
(9) Lần lượt đổi thay với các em mà chầu hầu mẹ, để làm mẹ vui.
(10) ”Áo vi” là áo tế của Hoành-hậu. Ý nói phảng phất tưởng nhớ dến dung nghi Vũ Hoàng-hậu.
(11) Mong Vũ Hoàng-hậu được thêm tuổi thọ.
(12) Hiềm vì cái cơ mầu tạo hóa xoay vần không lường trước được.
(13) ”Trướng thúy” là chỗ đàn bà ở. “Bữa ngọc” là bữa cơm. “Lò đan” chỉ thang thuốc. Ý nói vì sương nắng trái tiết bà nhuốm bệnh, ăn kém, thuốc uống không chuyển, làm cho vua Cảnh-Thịnh băn khoăn lo buồn
(14) Phút chốc bà bỏ trần gian, tiêu dao ở non Bồng, vườn Lãng là chỗ cảnh tiên. Ý nói bà mất.

(Còn tiếp)

Trang 36

“Lệ theo tình, tròn cuộc mấy cam (1).- Đức so thọ, lệch cân chưa đáng (2).

“Dầu ngự đoái di thể sữa măng vài chút, lòng quyên linh (3) đành có vẻ vang thêm (4).

“Dầu ngự cảm cố khư (5) hương khói đòi châm (?), lệ ân tuất (6) vẫn còn nhuần gội xuống (7).

“Ấy tấc vuông hằng chăm một tín thành (8).- Ắt mảy chút cũng thấu lên tinh sảng (9).

“Ôi!

“Bóng quạnh nước mây, thoi đưa ngày tháng!

“Chòi tiêu lan (10) dường rã rượi bên thềm (11)!- Dấu cư

-------------------

(1) ”Lễ là nhân tình người mà đặt ra tiết văn”, nay làm lễ tế là do chút tình thương nhớ. Có làm được thế thì đạo con mới tròn và lòng con mới yên.
(2) ”Người có đức tất được thọ”. Bây giờ thứ bắc đồng cân: Vũ Hoàng-hậu là người có đức, thế mà kém thọ; thật không thăng bằng, không xứng đáng!
(3) Quyến luyến là yêu thương.
(4) Ý nói: mặc dầu Vũ Hoàng-hậu được đức tiên đế (tức vua Quang Trung) đoái thương yêu mến, sinh được vài mụn con hãy còn măng sữa thơ ngây, làm cho bà càng vẻ vang bề thế
(5) Cái thành cũ. Chỉ nhà Lê đã mất.
(6) Triều Tây Sơn ban ơn cấp lộc cho những người trong họ Lê được củ ra để giữ tế-tự và coi lăng tẩm nhà Lê. Việc này được đặt thành một điều lệ, và lệ ấy đến đời Cảnh-Thịnh vẫn noi theo.
(7) Ý nói: mặc dầu nhờ Vũ Hoàng-đế, nhà Lê còn được tỏ đèn sáng hương ở nơi thành cũ, vẫn được nhuần-thấm trong ơn chu tuất một cách dồi dào.
(8) Tấc vuông, do chữ “phương thôn”, nghĩa là tấm lòng. Ý nói: nhưng lòng con bao giờ cũng vẫn một mực tín kính thành-thực đối với mẹ.
(9) Chắc lòng này thế nào cũng thấu tới tinh-linh anh-sảng của mẹ.
(10) Chữ trong sách TUÂN-TỬ chỉ người được dân yêu như tiêu lan thơm tho.
(11) Ý nói: Vũ Hoàng-hậu như chồi tiêu-lan được dân ưa chuộng, nay đã tàn tạ ở trước thềm rồi!


Trang 37

vũ bỗng lạnh lùng dưới trướng (1):

” Nguyện cũ hẳn nay lọn-vẹn (2), bên đan lăng quanh-quất mạch liên châu (4);- Khí thiêng gìn (?)để dặc dài, trong Thanh miếu ngạt-ngào mùi quán sưởng (5).

“Rày nhân:

“Cách bánh liễu dư (6),-Bày hàng thể-trượng (7).

“Nhìn khâm-vệ (8) trạnh ngưng mỗi vẻ, đường u-hiển xa lìa (8)!-Dâng điện-diên (9) gọi giãi mấy nhời, mối luân-thường sáng tỏ (10).

“Hỡi ôi! Cảm thay!”

---------------------

(1) Ngọc cư, ngọc vũ, đồ đeo làm trang sức của đàn bà xưa. Ý nói Vũ Hoàng-hậu mất, làm cho trong cung vắng-vẻ lạnh-lùng, tưởng nhớ đến dấu tích của bà lúc còn sống.
(2) Bà mất đi, cái ước nguyền “đồng sinh đổng tử” với Vũ Hoàng -đế chắc nay được trọn vẹn rồi.
(3) Cây mọc hai gốc liền nhau. Ý nói lăng bà ở bên lăng Vũ Hoàng-đế, mạch đất cảm thông, mọc cây liền gốc.
(4) Khí thiêng của bà còn mãi lâu dài. Mùi rượu “xưởng” dùng để cúng tế bà ở nhà thanh miếu đời đời thơm nức . Ý nói tinh thần bất diệt và hương hỏa nghìn thu.
(5) Nay nhân: xa cách chiếc xe chở linh cữu.
(6) à.và bày hàng nghi-trượng đưa đám
(7) ”Khâm” là cỗ xe trang sức bằng da; “vệ” là đồ nghi-trượng hộ-vệ.
(8) Cũng như nói “âm dương cách trở”.
(9) Dâng tiệc rượu đề làm lễ điện-tế.
(10) Làm bổ phận với mẹ cho “đạo thường” được tỏ rõ.


(còn tiếp)


Trang 38

“ Nhật hiểu Qui-nhơn phủ: Quan, Quân, Dân thứ đẳng tri:

“Tướng vâng quyền chế ngoại (1) dẹp lửa binh mà trợ (giúp) lấy dân lành.- Người sẵn tính giáng trung (2) , cởi lưới ngược lại noi về đường thuận.

“Mấy lời cặn kẽ, - Đòi chốn sum vầy.

“Quý phủ ta: cội gốc nền vương.- Rậu phên nhà nước.

“Miền thang mộc (3) vốn đúc non gây (?)bể, mở mang bờ cõi từ đây (4).- Hội phong vân (5) từng dìu phượng vin rồng, ghi tạc thẻ quyên (6) đành dõi để.

“Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận (7),- Buổi xe nhung thêm dong sức cần vương.

“Mấy phen gió bụi nhọc con dòng (8), giúp oai võ cũng đều nhờ đất cũ,- Ba huyện đá vàng bền tấc dạ, căm cừu thù chi để đội trời chung.

“Tiệc ca phong (9) chầm nhạn vừa yên,- Vời tĩnh hải tăm kình lại động (10).

-----------------------------

(1) Ông tướng vâng mệnh vua cầm binh ở ngoài biên cương.
(2) Người ta sinh ra được. Trời phú -bẩm cho lòng biết giữ đạo thường.
(3) Do chữ “thang mộc ấp” mà ra. Nguyên xưa theo chế độ phong kiến, thiên-tử cho chư -hầu ấp thang mộc (nghĩa đen: tắm gội) khiến chư-hầu lấy lại sự thanh sạch cho mình. Sau dùng rộng ra, “thang mộc” là chỗ phát tích của đế vương.
(4) Chỉ về vua Thái-Đức và vua Quang-Trung ban đầu đều dấy lên từ Qui -Nhơn.
(5) Hội gió mây gặp gỡ. Do chữ trong kinh Dịch: “ vân tòng lòng, phong tòng hổ” (mây gặp rồng, gió gặp hổ). Ý nói tao- phùng đẹp hội, chính là dịp tốt để tài trai bay nhảy.
(6) Do chữ “danh thủy giản bạch” mà ra. Nghĩa là tên được ghi vào thẻ tre, mặt lụa (vì chưa có giấy viết(để tiếng thơm về sau.
(7) Công tôn-phò giúp đỡ nhà vua.
(8) Cái giáo lưỡi nhọn.
(9) Do điển vua Hán-Cao khi qua ấp Bái (hay là Bái huyện thuộc Giang-Tô bên Tàu), đặt tiệc, gõ nhịp, hát bài Đại-phong. Ý nói Tây-Sơn vừa mới mừng cuộc thành-công ở Qui-nhơn là chỗ quê nhà.
(10) Cá kình là tượng trưng về biến loạn giặc giã.

Trang 39

“Đoàn ngoại vũ lung-lăng quen thói, nương thế đèo, đến Bến Đá chia ngăn (10),- Kẻ khổn ư (2) dáo-dở nên lòng, phụ ơn nước, chốn thành vàng phút bỏ (3) !

“Nơi trọng địa xảy nên gai góc,- Lũ lương gia (4) lây phải lầm than (7).

“Giận vì địch thế hãi buông tuồng (8),- Xót đến dân tình càng áy náy !

“Trong một cõi, nỗi hoành-ly là thế, đầu tên trước đạn, nghĩ cỏ cây âu đã đổi màu xưa,- Trên chín lần, niềm trắc ẩn dường bao, sớm áo, đêm cơm (9), mong đệm chiếu lại cùng êm nếp cũ (10).

“Chước điễn khấn ngửa vàng tiếng ngọc (11),- Việc đổng nhung xa chỉ ngọn đào (12)

------------------

(1) Vì bấy giờ thành Qui-nhơn thất thủ, có quân Cựu-Nguyễn đóng án ngữ, nên đường lối từ đèo Bến Đá dến Qui-Nhơn không liên lạc với nhau được.
(2) Kẻ giữ đất đai cửa ngõ một nước.
(3) Chỉ việc Bảo đem thành Qui-nhơn xuống hàng Cựu-Nguyễn.
(4) Vì bắt ép mà phải gượng theo.
(5) Lời khua giục dụ-dỗ.
(6) Phàn nàn, than thở.
(7) Chỉ bên Cựu-Nguyễn vẫn còn tung hoành.
(8) Nông nổi sa mắc vào lòng đau khổ.
(9) Do chữ “tiết y, cán thực” mà ra. Ý nói gặp lúc quốc-gia đa sự, nhà vua (chín lần: cửu trùng) bao xiết thương xót nhân dân. Nhà vua vì bận rộn quá, sớm đã phải thay áo, đêm mới được ăn cơm.
(10) Mong nhân dân được đặt êm trên đệm chiếu (do chữ “nhẩm tịch”) êm ấm như thuở trước.
(11) Trên vâng lời vua phán dạy, lo tính mưu chước dẹp giặc.
(12) Coi giữ việc binh, thẳng trỏ ngọn cờ đào.

Trang 40

“Bản tước nay (1): chịu mang đền phong (2).- Buông oai dinh liễu (3).

“Thế phân đạo gấu giồ (?) hùm thét, suối rừng pha (?) đồn lũy đã tan tành,- Cảnh sơ xuân (4) hoa rước oanh chào, đất nước thấy quan quân hớn hở.

“Súy mạc vốn quyết bài tất thắng (5).- Tông thành âu hẹn buổi phục thù.
Ngẫm chúng tình (6) đà quải-cách bấy lâu, sự biến ấy hoặc có người nghi cụ (7);- Vậy tướng lịnh phải đinh-ninh đòi nhẽ, thân-cố ta biết nảo tòng, vi (8).

“Nghiệm cơ giời đành thu góp về nhân,- Vâng ngôi thánh lấy chở che làm lượng.

“Bao nhiêu kẻ trót theo đảng dữ, như đã thích mê hồi thiện (9), thì đều noi chức-nghiệp cũ cho yên.- Hoặc mấy người riêng lắm (?) chi cao, mà nay nỗ lực lập công, ắt lại chịu ân thưởng nay càng hậu.

” Dầu trước có hà-tỳ (10), nào xá trách.- Ai sớm hay hối ngộ (11) thảy đều dung.

----------------------------

(1) Chỉ Trần-quang-Diệu.
(2) Do điển: trong cung nhà Hán trồng nhiều cây phong: nên về sau, người ta dùng chữ “đền phong” để chỉ triều đình.
(3) Do điển: Chu-á-Phu đời hán làm tướng đóng quân doanh ở Tế-liễu. Nhân thế đời sau dùng “trướng liễu” hay “dinh liễu” để chỉ chỗ quân doanh.
(4) Quân Diệu tiến vào Qui-nhơn, bấy giờ nhằm buổi đầu xuân.
(5) Ông tướng ở nơi màn trướng (ngày xưa, khi hành binh, viên chủ súy cùng các tướng tham mưu thường vây màn để bàn bạc quân sự, nên gọi là “súy mạc”).
(6) Cũng như nói “Lòng người, lòng dân”.
(7) Ngờ, sợ.
(8) Ta cho kẻ thân tình, người cố cựu biết rằng có hai đường đây: theo đàng nào, tránh đàng nào thì chọn đi.
(9) Bỏ điều mê man, quay về đường thiện.
(10) Dấu vết không lành.
(11) Biết tỉnh-ngộ ăn-năn lỗi trước

Trang 41

“Hội thanh-ninh (1) đành trên dưới đều vui,- Người Bái quận (2),,, (thiếu một chữ) móc mưa hiệp sái (3).

“Phương tị tựu ví kiếp chầy chưa tỏ (4),- Thủa Côn-cương ngọc đá khôn chia (5).

“Nghĩa cả mà nhầm,- Lòng ngay xá giữ.

” Nay hiểu” (6).
-----------------------------

(1) Vận hội thái-bình.
(2) Bái-quận nguyên là nơi quê-hương của Hán-Cao-Tổ. sau dùng rộng ra là nơi rau rốn của một đế-vương. Người “Bái-quận”, đây chỉ người Qui-nhơn, chỗ quê quán Tây-Sơn.
(3) Rẫy ơn huệ khắp cả mọi người.
(4) Nếu không sớm muộn biết chọn lấy đường tránh dữ theo lành thì
(5) Khí người ta nổi giận, thẳng tay trừng trị, bấy giờ các ngươi sẽ như tình-cảnh núi Côn-sơn bị thiêu: không cứ ngọc hay đá, thảy đều cháy rụi hết.
(6) Phiên-âm theo bản chữ nôm trong DỤ-ÂM VĂN-TẬP, quyển 5, tờ 13a, 14b và có so sánh với bản sao-lục, trong QUANG-TRUNG, tập hai, của H.B.H.T.T., trang 284-292.


**************************


CÔNG CHÚA CHƯ NHA ĐIỆN VĂN

(Đọc trong dịp tang Vũ Hoàng-hậu năm Kỷ -mùi 1799)

Than ôi! Đóa thượng-uyển hây hây đua nở (7), giọt sương ngưng mà hiu-hắt màu hoa (8)! vầng thái-âm (9) vằng vặc sáng lòa, hơi vụ ngất dễ mịt mờ bóng quế (10)!

“Nhẽ đổi thay máy Tạo khôn dò,- Cơn tan hợp đoạn tình kể xiết!
Nẻo thuở Doành Hoàng phô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn

------------------------------

(7) Đóa hoa trong vườn ngự đang mơn mởn đua tươi.
(8) Mà nay vì sương lạnh đọng lại, làm cho sắc hoa héo hắt điêu tàn.
(9) Mặt trăng tượng trưng về hập phi.
(10) Thuyết cũ cho rằng trong mặt trăng có cây quế, nên xưa ta dùng “bóng quế” để chỉ về trăng. Câu này có ý nói vầng trăng đang sáng bỗng có mây mù che khuất làm cho mờ đi, ví với cảnh Vũ Hoàng-hậu đang đẹp đẽ, bỗng cái chết làm cho tan tác đau buồn.

Trang 42

mười phân (1). Trải phen bến Vị đưa duyên (2), phím sắt xoang cầm vầy một thể (3).
Trên tuyền-đình dìu dặt thói hòa (4),- trong quế dịch đầm hâm hơi thụy (5).
Bóng cù-mộc sêng-sang tán đẹp, phận dựa leo đều vui chốn nương nhờ (6); -Đóa phương lan đua ruổi màu tươi, tình vun quén cũng có phần san -sẻ (7).
Hương nồng phấn đượm những nâng-niu,- Ngọc thuyết hoa chào cùng hủ-hỉ (8)
Bông đào nở (?) mừng duyên nghi thất (9), buổi qui ninh vâng đôi nhẽ dặn dò (10);- Giá ngọc trong khuyên nét xạ bình, lượt kiều dưỡng được mọi bề cặn kẽ (11).
So đấng trên, âu sánh chữ cù-lao (12);- Gìn sách trước đã sáng gương tề-mỵ (13).

-------------------------

(1) ”Doành Hoàng” là sông Ngân-hoàng, tức sông Thiên-hà. Nghĩa bóng nói bà Ngọc-hân là con gái vua Lê, ra từ dòng dõi nhà Trời. Nhờ từ thuở bé, tấm thân vàng ngọc ấy được trau chuốt hoàn toàn.
(2) Sau khi kết duyên với đức lệnh Nguyễn-Huệ, bà Ngọc Hân được bà con nhà Lê tiễn đưa tận bến Vị-hoàng ở trấn Sơn-nam (nay là nam-định) để bà về nhà chồng ở Nam-hà.
(3) Trong khi sánh duyên với vua Quang-Trung, thì đôi vợ chồng vui vầy như tiếng đàn cầm, đàn sắt rất là hòa nhịp.
(4) ”Tuyền đình” chỉ nơi cung đình nhà vua trang hoàng bằng thứ ngọc tuyền tốt đẹp. Ý nói cung thất có cái lề thói hòa vui.
(5) ”Quế dịch” cũng như quế cung, là cái cung thất đẹp đẽ. Ý nói trong cung đầm ấm những hơi tốt lành.
(6) Trong kinh Thi có thơ Cù-mộc, trong nói bà Hậu-phi có hiền đức ví như cây cù-mộc rườm rà, tốt tươi che chở cho những cây sắn dây, là thứ cây leo nương tựa ở đấy.
(7) ”Phương lan” chỉ các con cháu. Ý nói nhờ bà Ngọc-hân chăm nom săn sóc con cháu như những cây lan thơm đều được chia xẻ ơn trạch.
(8) Ý hai câu này nói: Các con cháu đều được bà nâng niu như hương hoa. Trong nhà ấm cúng những câu nói tiếng cười vui vẻ.
(9) Lấy điển trong thơ “Đào yêu” ở kinh Thi nói người con gái được cập thời mà thành gia thất.
(10) Những con gái đã ở riêng, khi về nhà thăm cha mẹ, đều được nhờ bà dạy dỗ cho.
(11) Còn con gái nào hãy còn bé, đợi kén chồng thì cũng được bà nâng niu cẩn thận.
(12) Chín chữ cù lao của cha sinh mẹ dưỡng, so sánh với trời là bề trên, thật là cao cả to tát.
(13) Khi cha mẹ song toàn, con cái thật được vui vẻ như trong sách xưa đã chép.

Trang 43

” Những ước thêm dao thẻ hạc, xôn xao tiệc thọ, ngẫu dâng thơm (1);- Bao giờ kịp ruổi xe loan, man mác cung xuân hoa chịu tẻ (2).

“Âm dương chia hai ngả luống phiền (3)!-Chung thủy cẩn một niềm dám trễ (4).

“Dầu gót ngọc vui miền tịnh độ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ (5), dầu xiêm nghê vắng cảnh thanh-đô, nỡ nào lãng một bóng tang du hầu xế (6).

“Tình biệt-ly hằng mọi nỗi băn-khoăn, kiếp sinh-hóa hẳn các điều vẹn vẽ (7).

“Trên đội chín lần trí kính, chốn đình vi săn sóc chẳng nguôi tình (8).- Trước dâng sáu chữ truy-tôn (9), việc khâm vệ sửa sang càng xứng lễ (10).

“Rày nhân:

“Hậu cách linh dư (11).- Kính bày diên lễ (12)

_____________________________________________________________________________________

(1) Những mong bà được sống lâu như tuổi hạc để con cháu làm tiệc mừng thọ ngạt ngào trong hương sen (ngẫu) thơm.
(2) Ai ngờ bà vội mất ngay, làm cho con cháu đang tuổi xuân xanh, phải buồn tẻ như hoa ủ héo!
(3) Từ nay âm dương cách biệt, các con rất buồn phiền.
(4) Nhưng một dạ kính cẩn, trước sao sau vậy, các con không dám trễ nải.
(5) Dầu bà vui vẻ đi về cảnh Phật, nhưng quên sao được hai chút con nhỏ đang còn thơ ngây.
(6) Dầu bà váng bóng ở thành đô là chỗ cung khuyết vua ở, nhưng bà quên sao được đức Phù -ninh Từ cung là mẹ đang lúc tuổi già như mặt trời xế bóng trên ngọn cây dâu.
(7) ”ven vẽ” cũng giống như trọn vẹn.
(8) Nhờ trên có đức vua Cảnh-Thịnh hết lòng hiếu kính, quyến luyến chốn đình vi là chỗ cha mẹ ở mà săn sóc đến nơi đến chốn.
(9) Vua Cảnh-Thịnh làm lễ truy-tôn bà tháng 11, năm Kỷ -mùi (1799) đã đặt sáu chữ làm miếu-hiệu là “Như ý trang thận trinh-nhất”.
(10) Nay bày đồ xe tang và nghi-vệ để làm việc chôn cất, lại càng xứng hợp với lệ lắm.
(11) Nay sắp sửa xa cách linh-cữu. Kính bày lễ tế điên.


Trang 44

“Trông đóa bạch vân (1) thăm thẳm, tình nghĩa xưa lìa dứt vì đâu?- Dâng tuần hoàng thủy vơi vơi (2), nghi văn ấy thấu soi chăng nhẽ ?

“Hỡi ôi ! Cảm thay !”

(Phiên âm theo bản chữ nôm
trong DỤ-ÂM VĂN-TẬP
chưa in ra quốc ngữ bao giờ)

-----------------------------

(1) Đó mây trắng.
(2) Dâng lễ cúng tế đạm bạc bằng chút nước vũng ao. Ý nói lễ bạc mà lòng thành kính có thể cảm đến vong linh

2- Bài của ông Phạm Việt Thường (1941)

“Les caprices du génie du mariage ou l'extraordinaire destinée de la Pricesses Ngọc Hân” (Những sự oái oăm của Nguyệt-lão hay là số kiếp ly kỳ của Ngọc Hân công chúa). Bài này được đăng trong “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Đô-thành hiếu cổ) số 4 phát hành 1941

http://dactrung.com/forum/topic.asp?ARCHIVE=&TOPIC_ID=5727

” Từ trong số những khung gỗ chạm trổ sơn son thếp vàng dùng để trang trí cho các cung, miếu ở cố đô Huế, người ta có thể tìm thấy hình bóng, tiếng vang của thời xa xưa. Nhìn thấy các tác phẩm chạm trổ nầy người ta có thể hồi nhớ lại chuyện tình tay ba giữa Ngọc Hân, Quang Trung và Gia Long.
Sau khi đã đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Gia Định (trận Rạch Gầm-Xoài Mút), Nguyễn Văn Huệ vẫn phải đeo đuổi, kéo dài,một cuộc chiến tranh không nhân nhượng, không ngơi nghỉ với Nguyễn Phúc Ánh. Yếu thế trước một đội hùng binh uy mãnh, Ánh phải đào thoát sang nước Xiêm La (nay là Thái Lan) để phục hồi và tổ chức lại đoàn quân của mình chờ ngày trở về chiếm lại đất Gia Định.
Trong thời gian đó, đoàn quân của Huệ liên tục đi từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác, uy danh của Huệ vang lừng khắp nơi . Rồi, dưới chiêu bài phù Lê diệt Trịnh, Huệ cùng với hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân tiến chiếm Vị Hoàng, hạ thành Sơn Nam rồi thẳng tiến vào Thăng Long . Huệ đòi hoàng đế Lê Hiển Tông phải đăng triều tiếp đón Huệ. Lê Hiển Tông dù đang mắc bệnh cũng phải gượng gạo gặp Huệ. Trong cuộc gặp mặt nầy, Huệ đã đem lời dịu ngọt để trấn an Lê Hiển Tông. Để tỏ lòng biết ơn, Lê Hiển Tông phong cho Huệ chức Nguyên Soái Phụ Chính Dực-Võ Úy-Quốc Công và gả con gái là Công chúa Ngọc Hân cho Huê.
Dù là một danh tướng gan lì, lạnh lùng và nghiêm khắc nhưng khi đối diện với một nữ lưu vương giả sắc nước hương trời như Ngọc Hân, Huệ cũng phải trở thành bẻ lẻn e dè và thờ thẫn . Huệ tự cho rằng mình xứng đáng được hưởng phần thưởng xinh đẹp kia và hãnh diện có được một người vợ thuộc hàng quý tộc cao sang tột bực.
Trong khi dân tình miền Bắc đua nhau đi xem lễ cưới của Huệ và Ngọc Hân thì nơi một phương trời xa, ở thủ đô Bangkok, kẻ lưu vong Nguyễn Phúc Ánh đang hướng mắt mỏi mòn trông chờ những kẻ từ hướng Tây trở về: Ánh mong tin đi cầu viện vua nước Pháp của Giáo sĩ Giám Mục Bá Đa Lộc và hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh.
Sau những chiến tích vang dội và oanh liệt, Nguyễn Văn Huệ tự xưng, lên ngôi hoàng đế (1788), lấy niên hiệu là Quang Trung, phong cho Ngọc Hân làm hoàng hậu. Tuy nhiên chiến thắng oai hùng và tình yêu hạnh phúc của Huệ thật ngắn ngủi, triều đại Quang Trung xán lạn giữa đường đứt đoan. Năm Nhâm Tỵ (1792) một cơn bệnh đột phát khiến cho Huệ qua đời, bỏ lại bao dự tính chọc trời khuấy nước làm rung chuyển kinh hoàng đám giặc nhà Thanh, bỏ lại người đẹp mỹ nhân ngọc ngà .
Ngọc Hân trở thanh một bà Hoàng sầu muộn, cô đơn, tự giam nhốt mình trong cung thất lạnh lùng, tự trách cho số phận hẩm hiu và nhất là tiếc thương,than khóc nhớ người chồng quân vương yểu số mang theo trái tim và hình sắc của bà xuống đáy mồ, âm dương cách biệt.
Nguyễn Quang Toản con trai trưởng của Huệ, cháu của Bùi Đắc Tuyên kế vị ngôi hoàng đế . Toản còn nhỏ, quyền hành triều chính ở trong tay Bùi Đắc Tuyên. Tuyên mặc sức chuyên quyền, triều ca phân tán, đình thần giết hại lẫn nhau, nội bộ Tây Sơn chia rẽ, dân tình lêu bêu, bất ổn, oán than khắp cùng, mắt trông hướng về phương Nam để cầu trời khấn Phật “Lại trời mau tới gió Nam, Để cho chúa Nguyễn giăng bườm Bắc chinh”. Bề tôi trung thần cũ của Tây Sơn đều chán chường sẵn sàng về với Nguyễn Phúc Ánh .
Lợi dụng tình thế chia rẽ và loạn lạc trong nội bộ của Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh tấn công Phú Xuân (1801). Quang Toản bỏ rơi Ngọc Hân để một mình chạy trốn ra Bắc Thành. Triều Tây Sơn đã tới thời suy thoái .
Tin quân Tây Sơn thất trận, vua Cảnh Thịnh bỏ kinh thành đưa tới như sét đánh ngang mài khiến cho Ngọc Hân bấn loạn tâm can. Bà đã bị bỏ rơi lại trong bàn tay sinh sát của giặc Gia Định.
Vào một đêm không trăng, dưới ánh đèn mờ ảo trong vương cung, Ngọc Hân chợt nhìn thấy một bóng người vậm vỡ uy vệ đang ung dung tiến bước về phía Bà đang ngồi rồi tỏ hiệu chào hỏi . Ngọc Hân run sợ vì sự có mặt của người lạ, bà bạo gan lớn tiếng:
- Này tên giặc Gia Định kia, hãy dừng bước! Nhà ngươi muốn gỉ ?
Người lạ mỉm cười:
-Ta chẳng muốn gì cả, người đừng sợ. Giặc Gia Định cũng là con người phàm tục nhưng lại là một con người nhân hậu và có tình có nghĩa hơn là bọn giặc Tây Sơn.
Ngọc Hân trố mắt nghẹn lời.
- Dù thế nào đi chăng nữa thì cung điện nầy vẫn luôn luôn là cung điện của nương tử.
Ngọc Hân run rẩy đáp lời:
-Nơi đây đã trở thành một lãnh cung, một nhà tù chung thân đối với ta !
Nói xong, Ngọc Hân khóc rắm rức . Nỗi đau khổ cùng cực khiến cho Bà không biết sợ chết mà lại còn là tăng thêm nét diễm kiều của Bà khiến cho tướng giặc phải rung động và bồi hồi trong dạ. Thông cảm với nỗi đau của người cô phụ, tướng giặc chỉ còn biết thốt lên một vài lời an ủi vu vơ rồi yên lặng rút lui .
Sau một đêm dài trăn trở, Ngọc Hân như kiệt lực. Nghe tiếng chim hót ngoài sân, Bà tưởng chừng như mình đang nghe tiếng hò reo xung phong phá thành của giặc Gia Định .Thân xác rã rời, Bà không buồn trang điểm phấn son .
Rồi bất chợt, một người đàn ông uy nghi trong bộ chiến phục vương giả đang rảo bước về hướng bà đang ngồi .Bà nhận diện ra ngay đó là tên giặc Gia Định đêm qua . Người đó là Nguyễn vương Phúc Ánh. Bà khép nép đứng lên nói lời tạ lỗi vì sự xúc phạm trịch thượng của bà hôm qua . Nguyễn vương mỉm cười và hỏ:
- Đêm qua nương tử có được an giấc không ?
-Khải tấu vương thượng, cả đêm thần thiếp không được một giây chợp mắt! Thần thiếp e sợ rằng định mệnh ác nghiệt sẽ không tha cho thần thiếp!
-Nương tử là một bậc hoàng hậu can trường! Người hãy an tâm . Dù cho vật đổi sao vời, đất nước nầy sẽ không bao giờ thay đổi, nương tử đừng lo sợ và cất đi sự sầu bi để vui vầy trong cuộc sống mới. Từ nay, người vẫn là chủ nhân của cung điện nầy.
- Nhưng, khải tâu chúa thượng tiện thiếp chỉ là . .
Nguyễn vương cắt ngang:
-Ý ta đã quyết, nương tử hãy nghe theo lời ta . . .


*

Trong một buổi đại triều, Đại Giám Quân Lê Văn Duyệt trình tấu với Nguyễn vương :
-Chúng ta đã chiến thắng, nhưng kẻ thù ngoài kia vẫn chưa bị tiêu diệt. Cuối xin chúa thượng chớ có quỵ lụy vì người đàn bà đó mà làm hỏng đại sự tạo dựng đế nghiệp mà tiên đế và chúa thượng từng đeo đuổi từ bấy lâu nay . Người đàn bà đó dù nhan sắc có chim sa cá lặn thế mấy chăng nữa thì chẳng qua cũng vẫn là thê thiếp của kẻ đại thù . Giai nhân nhan nhản khắp nơi, chúa thượng cần gì phải hạ uy danh của mình để rơi vào lụy tình với người đàn bà đó .
Nguyễn vương mỉm cười, thái độ ung dung:
-Suốt 24 năm dài chinh chiến, các người có thấy ta buông lơi bổn phận lần nào chưa ? Còn mỹ nhân thì không thiếu nhưng đã có mấy ai lung lạc được ta ? Nương tử Ngọc Hân là thê thiếp của giặc, đó là một lối kêu gọi tàn nhẫn và ác độc. Người nữ lưu nầy cũng như những bậc nữ lưu khác, nhưng người nầy là một nữ lưu can trường không sợ chết trước mặt kẻ thù, một nữ lưu dễ yêu và đáng kính trọng, độc nhất vô nhị, mà ta chưa bao giờ gặp trước đây. Tình yêu và nhiệm vụ ta không bao giờ lẫn lộn. Chí hướng của ta không thể bị lu mờ vì mỹ nhân rù quến . Tiền đồ, sự nghiệp không ngăn cản ta có tình, có nghĩa và ta chắc rằng các ngươi và triều đình cũng không có gì gọi là trầm trọng mà làm hẹp ý ta .
Trước thái độ cương quyết của Nguyễn vương Phúc Ánh, triều thần phải nghe theo . Ngọc Hân lại tìm được một người tình mới, bỏ trôi đi quá khứ của một bà Hoàng sầu muộn.

*
Năm 1802, Nguyễn vương Phúc Ánh đặt niên hiệu mới là Gia Long trước khi đem quân ra giải phóng Bắc Hà . Sau khi thống nhất đất nước, Nguyễn vương trở về Phú Xuân, xưng đế hiệu Gia Long, xây dựng cung thành.
Ngày trước, lúc còn sinh tiền, Hoàng đế Lê Hiển Tông đã mướn các nghệ nhân Trung Quốc chạm trổ nhiều bức hoành bằng gỗ quý sơn son thếp vàng để trang trí cung thành ở Thăng Long . Các bức hoành đó chỉ được gửi sang Đại Việt sau ngày qua đời của Lê Hiển Tông, chưa dùng tới, để rồi ngày nay được Gia Long cho đưa về kinh đô Phú Xuân trang trí điện Cần Chánh để làm đẹp lòng Ngọc Hân.
Ngày nay, ngắm nhìn những khung hoành chạm trổ ở điện cần Chánh, khách thưởng ngoạn có thể nhớ về chuyện tình của Công chúa Ngọc Hân và có thể khoan khoái mỉm cười cho một kết cục hạnh phúc.
Thế nhưng, nếu ai có đi ngang qua ngôi miếu thờ xiu vẹo đổ nát của Quảng Oai Quận Công và Thường Tín Quận Vương thì ngươi ta phải bàng hoàng chua xót. Tại sao ? bởi vì hai vị tiền nhân nầy là hai người con trai của Hoàng đế Gia Long và Công Chúa Ngọc Hân !