SỐ 28 - THÁNG 10 NĂM 2005

 

Thư Tòa Soạn

Thơ
Lỡ gặp nhau
24 NNguong
Bãi sau
23
Hoàng Du Thụy
Mắt em màu biển cả
21
Huỳnh Kim Khanh
Bóng chiều
20
Trần Việt Bắc
The mistake
19
Nguyễn Xuân Vời
Lá thu
19
Hoàng Mai Phi
Một cõi chập chùng

18
Tôn Thất Phú Sĩ
Cảm tạ tình anh
18
Kim Thành
Chuyện tình xóm cũ

17
Maihoado
Trang thơ cũ
17Ngọc Trân
Tôi kể em những điều tháng 9
16Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Thu và những mảnh vụn ký ức
15
U Miên
Mộ gió
14
Phan Thái Yên
Dấu mặt trời
13
Hoàng Du Thụy
Mùa thu đời người
12
Cỏ Biển
Chuyện nhỏ một đêm trăng
11
Nguyên Nhi
Gặp nhau trên đất Mỹ
10
Phạm Hồng Ân
Chiếc xe đạp cũ
9
Nguyễn Hồng Quang
Cỏ mềm lãng đãng
8Song Thao
Tôi đi xem đêm nhạc Châu Đình An
7Nguyễn Ch.

Văn học, biên khảo
Con đường sương
4Vũ Hoàng Thư
Nhà Trần khởi nghiệp
4Trần Việt Bắc
Huê
4Xuân Phương
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 15

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
2 Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 22
1 Huỳnh Kim Khanh


 

Huê

 

Huê:Hoa / Diệp:Lá / Chi: Cành - Huê diệp chi: Hoa lá cành : Một cành mai gầy trong gió đông; một chiếc lá ngô đồng rụng  báo hiệu mùa thu; một đóa sen mùa hạ; một nụ tầm xuân vừa hé nở ... đều được con người chiêm ngưỡng, quan sát như những biến dịch của trời đất, rồi từ đó suy nghiệm , nhận ra những qui luật tiến hóa trên đường sanh diệt .
Hoa là biểu hiện cho cái đẹp mà  tạo hóa  đã ban tặng cho con người. Sự hiện diện của hoa trong cuộc sống  giúp cho tâm hồn con người dễ hòa nhập vào với thiên nhiên, vơi bớt ưu phiền. Cái  đẹp của hoa hoàn thiện và vĩnh cửu, dù cho hoa có sanh diệt theo lẽ vô thường. Người ta yêu hoa vì cái đẹp của hoa, của đời và của người. Nhưng con người  khi yêu cái đẹp đã vô tình đem cái đẹp của hoa giam  vào xã hội nhân thế đa đoan. Con người tùy theo sở thích, quan niệm riêng tư trong cung cách xử thế, đã phân định đẳng cấp cho hoa như: Mẫu đơn: Vương giả chi hoa; Hà hoa( hoa sen ) : Quân tử hoa; Nguyệt Quế :Hoàng hậu hoa; Sơn trà : Trân phẩm hoa ; Đỗ quyên : Tây Thi hoa...
Huê / Bông  / Hoa được con người chia thành hai loại chính: loại đẹp (sắc) và loại thơm ( hương ). Nên ta có những hoa vừa đẹp vừa thơm ( hữu sắc hữu hương), những hoa chỉ đẹp không thơm ( hữu sắc vô hương ), những hoa chỉ thơm không đẹp ( hữu hương vô sắc ), hay đến những hoa không đẹp không thơm ( vô hương vô sắc/ hoa cỏ ngậm ngùi hic, hic à). Đó chỉ mới nói về  sự thưởng ngoạn hương sắc hoa . Còn  nói về thể chất hoa thì có hoa mỏng  manh, có hoa bền bỉ, có hoa mềm mại, có hoa cứng cát ... Về màu sắc thì muôn màu như: trắng , đỏ, tím, vàng à Chưa kể đến sự hiện hữu của hoa trong văn chương thi phú, thơ ca ... cho đến " nền "  văn hóa ẩm thực : hoa không ăn được và  hoa ăn  được dùng làm thực phẩm .
Hoa dùng làm thực phẩm thì cũng có hoa đẹp, hoa không đẹp, nhưng thôi xin không bàn về sắc hương nữa, mà chỉ nói đến các món ăn  được chế biến từ các loại bông/ hoa  như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình, bông hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen, bông súng  và  hoa thiên lý.

BÔNG  BÍ
Bông  bí dùng để ăn là bông bí đực của cây  bí rợ, không thể đậu  trái. Bông bí lớn, màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó nhỏ đem ra chợ bán, nhưng không có nhiều , chỉ có theo mùa. Thông thường bông bí đem về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẩn, phần tiếp giáp giữa cuống và bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh,  xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu, xào bông bí phải canh cho vừa chín mới  còn giòn. Món đặc sắc nhất của bông bí  là "bông bí dồn thịt chiên " hay còn gọi là chả bông bí.
Bông bí vừa chớm nở phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, xoi tim, rửa sạch, để ráo.Tôm, mực, thịt nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột năng. Bẻ gập các cánh hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ để bông bí còn màu vàng tươi, không bị cháy sém. Chả bông bí beo béo, thơm thơm, chấm nước tương dầm ớt.  Món ăn này thường được "thực hiện " trong những ngày giỗ,  tết của gia đình hay tụ họp., đãi đằng, chả bông bí không những phổ biến ở "miệt vườn " phương Nam , mà còn  nổi tiếng ở Huế nữa. Ca dao miền Nam có câu :

Má mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh    

 Hiện nay với trào lưu fast-food đã Tây phương hóa dần dần cung cách ăn uống  ở  Đông phương nói chung, ở  Việt Nam nói riêng, TTSH  đã  "nhẹ nhàng" rằng :
Má mong đưa thiếp  lên thành
Biết ăn fast-food cho rành ... người ta

HOA CHUỐI
Người miền Bắc gọi là hoa chuối, người miền Nam gọi là bắp chuối. Thường buồng chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp chuối có màu tím, ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành nhiều món ăn như : trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và  chiên làm đồ chay …

-Gỏi bắp chuối (nộm hoa chuối ): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non xắt mỏng, ngâm nước pha chanh hay giấm cho khỏi đen và  ra bớt nhựa, vớt ra, để ráo. Trộn chung với tôm thẻ, thịt heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt luộc chặt miến gà rồi rau răm, củ hành tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ, nước mắm pha đường, chanh, tỏi , ớt .

-Canh chua  bắp chuối : Bắp chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua  me dầm  với tôm, cá, lươn …

-Bắp chuối bào  trộn với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung với các món nước như: bún riêu, bún bò, lẩu các loại...

-Phần trắng giữa bẹ bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như:  gà xào sả ớt, tôm lăn bột chiên.
Cây chuối rất dễ trồng ở Việt Nam. Hình ảnh của bờ tre đầu làng, bụi chuối te tàu sau vườn là hình ảnh của quê nhà trong tâm người xa xứ, bụi chuối còn  là hình ảnh người đàn bà Việt Nam trong ca dao :

Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh theo vợ bé, bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu  đội thúng bông


BÔNG  ĐIÊN  ĐIỂN
Còn được gọi là " hoa mùa lũ " hay "hoa cứu đói ". Do mỗi năm, khoảng  một tháng sau khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ đầy cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong những ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân  chống xuồng ba lá đi hái  bông điên điển tươi  bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông, luộc bông ăn cầm cự  đói :

Cầm trên tay chùm "hoa mùa lũ "
Tên loài hoa chân chất quê nhà
Bông điên điển nở vào kỳ giáp vụ
Vượt lên trên ngầu đục phù  sa
"Hoa cứu đói ", bà con thường gọi thế
– Bùi Văn Bồng

Bông điên điển lặt, rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng 3 ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá, kho thịt, nấu canh với cá rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc dưới nước. Người ta giăng lưới, câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là có cá rô con, rô mề cỡ  mấy ngón tay. Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm, nếm gì thêm  cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn .

Bông điên điển dùng làm rau sống nhúng lẩu  cá, lẩu mắm ; Xào tép; Thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt  ; Làm mắm  chay ; Nấu canh chua. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá linh từ Biển Hồ trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me sống vừa chua, làm lẩu,  nhúng chỉ duy nhất  bông điên điển vào. Hoặc bông điên điển được nấu canh chua với cá bông lau, đậu bắp như trong thơ Bùi Chí Vinh:

Tôi biết có nồi canh điên điển
Cá bông lau, đậu bắp, mỡ hành
Em ngậm cái màu bông chín nõn
Thẹn thùng không nói được tiếng : anh
… Con sáo sang sông, con sáo hiếm
Kỳ hoa thành lẩu đãi nhà quan
Đâu biết có nồi điên điển luộc
Ăn thay cơm trên sóng thủy thần
Em ngậm cái bông màu nước mắt
Kỷ niệm buồn như một tiếng anh


Hay hình ảnh bông điên điển và bông lục bình  trong ca dao miền Nam :

Lục bình bông tím, điên điển  bông vàng
Điên điển mọc ở đất làng
Lục bình trôi nổi như chàng hát rong


BÔNG  LỤC  BÌNH
Còn có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống  nổi trên mặt nước, có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành chùm ở ngọn. Hoa không đều, có màu  tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu, dính liền nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy ( 3 dài, 3 ngắn ). Người ta dùng bẹ  bông lục bình làm gỏi , chấm nước cá kho .

Lục bình ai thả trôi sông
Mà sao tím cả mấy dòng sông quê
Xa nhà, xa mấy triền  đê
Mà nghe thương nhớ lối về mênh mông
Ai về tìm lại khoảng sông
Có hoa tim  tím  cánh  đồng ngày  xưa 
- Hoài  Trâm

BÔNG  LẺ  BẠN
Cây lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt Nam. Cây trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây có thân rất ngắn, lá mọc gần như sát đất . Lá không cứng, có  bẹ, đầu thuôn dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím. Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách lá, ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông sò huyết ( oyster plant ). Hoa màu trắng , dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh với xương heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.

Đâu phải tại bông mà mình thành lẻ bạn
Tại tía má em đành đoạn
Bứng gốc cây bần
Chê anh nghèo áo chẳng đủ ấm thân
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm 


BÔNG HẸ
Cây  hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho.Bông hẹ tiếng Tàu gọi là Cửu thái , tiếng Anh là  Chives. Bông hẹ màu trắng . Nấu canh với đậu hủ tươi ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà ( tim , gan ,mề), nghệ  ăn  để trị ho .

 BÔNG  MƯỚP
Cây mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn  đã ra hoa . Người ta thường có câu:" Nụ cà, hoa mướp ". Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen.Không bằng bông bí, nhưng  hoa mướp cũng  được dùng luộc,  xào lòng gà, ngon  nhất là hoa mướp hương , ăn bùi và  béo.

Con chim chuyền  cành ớt
Giàn mướp nắng lưa thưa
Bát canh chiều rau ngót
Thơm ngát tình quê xưa
- Hạt Cát

BÔNG  KIM  CHÂM
Tiếng Tàu gọi là  kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên . Cây thường  mọc hoang. Cuống hoa  dài từ 80- 100 cm , đầu cuống chẻ làm hai, có từ 6-12 hoa. Hoa màu vàng, phơi khô thành màu nâu . Người ta thường dùng hoa kim châm khô với nấm mèo  để nấu  canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà … Hoa kim châm có vị ngọt, tính mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu cam .  Ngày nay cây  được trồng nhiều ở  vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam .

BÔNG  SÚNG
Cây súng là giống cây mọc hoang dại quanh năm ở dưới nước của đồng bằng miền Nam. Từ ao , hồ , đầm dến mương, kênh, rạch  ,láng, bàu, trũng ... Vùng  Đồng Tháp  Mười cây  súng  mọc nhiều nhất , nên ca dao miền Nam có câu :

Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho  đã  thèm


Cây súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng nhạt , nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng : Súng sen được trồng ở  đầm chùa, ao làng có bông màu tím đỏ, rất to; Súng dại  có cuống lá nhỏ, bông màu trắng hay tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều ô. Bông có 4 lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng . Thật ra, người ta  chỉ xài phần thân , cọng súng màu nâu , nhưng vẫn gọi đó là  bông súng .

Bông súng muốn ăn phải tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch . Bông súng dùng  trộn gỏi ; ăn sống với mắm kho; nấu canh chua với cá  đồng ; bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa.

 BÔNG  SEN

Trong đầm gì  đẹp  bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng , lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn


Hoa sen từ xưa đến giờ vẫn  được xưng tụng là một loài hoa thanh khiết , được dùng để dâng, cúng Phật . Hoa sen hữu hương , hữu sắc. Hoa sen trắng mang vẻ tinh khiết . Hoa sen hồng có nét thắm tươi . Phù cừ là tên một loài sen nổi tiếng. Nói về hoa sen thì không bút mực nào kể cho xiết . Từ chuyện ngài Ma Ha Ca Diếp nhìn sen mà  bừng nở tâm hoa, mỉm cười ngộ đạo trong câu chuyện " Niêm hoa  vi tiếu " của Phật giáo đến những cái diệu  kỳ, tinh túy của hồn hoa sen .

Hoa sen là một loại thực vật đắc dụng vô kể , không bỏ sót thứ gì . Trong địa hạt  Đông  y , mỗi bộ  phận của  cây sen có tính trị liệu khác nhau :

-Gương sen ( liên phòng ) , lá sen ( hà  diệp ), vỏ ngoài hột sen : tánh  mát, trị tiêu chảy, cầm máu .
-Hột sen ( liên nhục ) : vị thuốc bổ tì, bổ thận .
-Nhụy sen (liên tu ) :thông  thận , cầm máu , giữ tinh( liên tu  bất  tận ).
-Tim sen (liên tử tâm /lõi xanh trong hột sen ) : an thần ,trị huyết áp cao . 
-Ngó sen (liên ngẫu ) : thanh nhiệt , dùng sống giải  rượu, nấu chín giải  độc trong thức ăn  đồ  biển .
-Củ sen :chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh .

Trong phạm vi ẩm thực, cây sen được sử dụng từ : Gương sen phơi khô đem đun thay củi; Lá  sen gói cơm , xôi , quà  bánh  giữ được hương vị rất lâu; Lá sen non nấu cháo trị chứng  giữ nước, phù  thủng... Hột sen tươi hay khô  được xỏ xâu dùng  nấu chè , làm bánh, làm mứt , tiềm vịt, tiềm  gà... Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm mứt, luộc , chiên bột , hầm canh … cho đến trà  ướp hương sen .

Hoa sen vị ngọt, hơi  đắng, không  độc, có tánh ấm, giúp an thần , trị xuất huyết . Có một món ăn nấu từ hoa sen của nhà văn Tản Đà , đã trở thành giai thoại : Vịt hấp hoa sen . Ông cho rằng tinh túy  của sen đọng lại ở  hoa , nên dùng cánh hoa sen phủ  kín vịt  để hấp cách thủy .Vịt ở đây là vịt tơ vừa,  được làm sạch bằng rượu , khử mùi  bằng gừng , ướp gia vị  cho thấm trước. Khi vịt chín , bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả thịt vịt mềm, không bị béo ngậy  cùng hoa thơm, ngọt .Đến hết vẫn còn  " vương vấn " hương vị , cứ như  là :" Dẫu lìa ngó  ý còn vương  tơ lòng "( Nguyễn Du ) theo ý  thơ  của  Mạnh Giao :

Thiếp tâm ngẫu trung tị , tuy  đoạn do khiên liên
( Lòng thiếp tơ trong ngó sen , dù  đứt còn vương hoa )

BÔNG  SẦU  ĐÂU
Tên gọi sầu đâu dễ  bị lầm lẫn với tên gọi là  thầu đâu, là sầu đông của cây xoan ta . Cây sầu đâu có nhiều ở  vùng  Thất sơn, An Giang , Châu  Đốc, những tỉnh giáp giới Campuchia . Cây sầu đâu thân gỗ, cao to,vỏ sần sùi  ,chứ không trơn láng như thân cây xoan  ta .Lá xoan ta  độc, không ăn  được, còn lá non và bông sầu đâu thì ăn được . Lá sầu  đâu  dùng làm thuốc sốt  rét. Bông sầu đâu ra hoa vào mùa xuân , màu trắng , mọc thành từng chùm như hoa nhãn , dùng làm gỏi.

Gỏi sầu đâu tương đối dễ làm :Rửa sạch bông và lá non, có thể  trụng sơ qua nước sôi. Nướng  khô cá  sặc  rằn , khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào .( Nếu không  có  khô  thì có thể  thế  bằng cá  lóc nướng trui xé nhỏ ) .Trộn thêm  rau thơm, hành tây xắt mỏng , xoài băm sợi … Ăn với nước mắm me, đường , ớt . Gỏi  sầu  đâu  có  vị  đắng nhưng  hậu ngọt dai.

Thấm hoài vị  đắng sầu  đâu
Thương  bông  so đũa trắng  đầu...  má ơi !
  - NTTN

BÔNG  SO   ĐŨA
Cây so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng của  đồng bằng sông Cửu Long . Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám , xù  xì, nứt nẻ. Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa . Thân cây so đũa dùng làm cột nhà, cấy nấm mèo. Lá  là  món hảo của dê . Bông so đũa  mọc  ở  trên cao, kết thành từng chùm , có 2  màu : trắng và  tím. Bông so đũa có vị nhân nhẩn đắng , nhưng ngọt hậu .

Đầu tháng 10 âm lịch  trở  đi , cây  so đũa  đồng loạt ra hoa, cùng lúc với mùa  cá linh  để  có món ăn  nức  tiếng là  cá  linh nấu canh chua bông  so đũa .  ( Cá  linh thường được dùng làm mắm  để  dành ; Chế  biến  nhiều món như kho mặn , kho mẳn lót mía , kho mắm với cà tím, kẹp vỉ nướng , chiên  giòn, nấu canh chua với bạc hà... ). Bông so đũa  lặt cuống , rửa sạch . Nấu nước sôi ,dầm me, thả cá linh , nêm vừa miệng, hớt bọt , cho bông so đũa  vào là  nhấc xuống liền , để  bông còn giòn  mới ngon . Trên mặt  bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ, thêm một chút  tỏi phi, vài lát  ớt tươi . Không có cá  linh , người  ta  nấu canh chua so đũa với tôm, tép.

Bông so đũa còn dùng  luộc, xào , đặc biệt là món cá lóc bọc bằng bông so đũa hấp , chấm nước mắm đồng dầm  ớt

HOA  THIÊN  LÝ
Cây  thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét , thân non có lông, lá mọc đối . Hoa  mọc thành chùm màu vàng  chanh hay trắng ngà . Ban đêm hoa  tỏa hương thơm ngát , nên còn  được gọi  là  Dạ lai hương :

Đêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em êm  đềm rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương  tự ngàn  xa, bỗng  quay  về
Dạt dào trên hè, ngoài trời khuya
… Nhờ  đêm  đưa lối những ai làm ngát hương  đời
Nhẹ  bàn chân , hương  đêm  ơi !
     - Phạm Duy

Lá và hoa thiên lý  được thu hái vào mùa  hè, dùng  tươi . Rễ thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác dụng chữa bịnh  trĩ, trị  giun  kim . Rễ chửa  tiểu buốt hay ra máu . Hoa  thiên lý giống như cái chuông  gió nhỏ, lấp ló trong những tán lá xanh  mướt . Ngoài chức năng làm  đẹp :

Tóc em dài  em cài hoa thiên lý
Miệng em cười hữu  ý anh thương

    Cộng  mùi hương thoang thoảng , hoa  thiên  lý còn có vị ngon ngọt , tánh  mát , được người nông dân miền Bắc coi  như một loại rau có sẵn trong nhà . Hoa thiên lý  đi vào ca dao qua câu :

Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen


Canh thiên lý mang hương vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý  không  phức tạp . Chọn những chùm hoa mới nở , ngâm nước cho hết  kiến , chùm hoa to thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ . Ở  thành phố  thì nấu hoa thiên lý với thịt heo bằm, giò sống . Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua  đồng  giã  nhỏ  là  canh có hương vị  đậm  đà  ngay.
Hoa thiên lý  xào với thịt  bò, có  ướp chút gừng và  nước tương  cho thấm . Ngày nay , người ta  dùng  hoa thiên lý như một loại rau sống , nhúng với lẩu các loại .

Người ấy dạo xưa vẫn hay sang
Xin mẹ  từng chùm thiên lý hoa vàng
Về nấu nồi canh hoa thiên lý
Tưởng  bắc đò  sang nối họ hàng
Bướm  đậu vô tình , bướm lại bay
Để giàn cây mướt  nở hoa đầy
… Chiều nay ngắt  từng chùm thiên  lý
Cánh mỏng manh, nhụy trắng, hoa vàng
Chiều nay nấu nồi canh thiên lý
Giải nỗi sầu trong lòng nặng mang
  -LH

Nhiều dân  tộc khác cũng có các món ăn chế biến từ các loài  hoa  như: người  Nhật  ăn hoa cúc đồng , người Pháp  nấu thức ăn với choux-fleur, artichaut , người Hy Lạp dùng bông bí để chiên , dân Nam  Mỹ có hoa của cây yucca  dùng làm salad , xào.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du có câu :"Chơi hoa dễ có mấy người biết hoa". Ý chỉ về sự thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng hương sắc của đất trời ban tặng cho con người qua biểu tượng là hoa . Còn kiểu nếm hoa để thưởng hoa  trong phạm vi bài sưu tầm này , thì người viết được TTSH  phang cho ngoại hiệu là : "Bông học giả".  Phân tích từng chữ thì thật là "khổ" lắm thay !!! May sao nhà văn Võ Phiến trong bài "Ăn và đọc" đã phần nào giúp cho người viết "chống chế" đặng chút đỉnh qua một  đoạn văn thế này: "Nhưng văn chương nghệ thuật không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương, và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người địa  phương … Như vậy, người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người đã  ăn cả gốc gác quê hương, bằng  phong tục tập quán của mình, bằng  khí chất  riêng biệt của  cơ  thể mình, cũng như  bằng lịch sự, trình  độ văn hóa  của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương ... Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những  đặc điểm tâm hồn  trong  đó có quá chăng ? ".

Xuân Phương