SỐ 23 - THÁNG 7, NĂM 2004

 

Thư toà soạn

Thơ
Cựu phù du
Huỳnh Kim Khanh
Khi xa Thụy Tuyết
Phạm Hồng Ân
Hạt bụi tình yêu
Nnguon
Tháng 8
Trần Việt Bắc
Mẹ tôi
Hà Phú Đức
Biệt ly
Tôn Thất Phú Sĩ
Ta vẫn chờ em
Hoàng Mai Phi
Nhớ thời đi biển
Tóc Tím
Nắng dại khờ
Dã Thảo
Nhớ Đà Lạt
Ngọc Trân
Ngẫu nhiên
Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Trăng nước Tầm Dương
Hạt Cát
Về với cơn mưa
Phan Thái Yên
Thiếu nữ cài bông hồng đỏ
Nguyên Nhi
Giọt trầm
Song Thao
Chén cơm và nước mắt
Nguyễn Hồng Quang
Tháng bảy và phượng tím
Vũ Hoàng Thư
Lưới trời
Cỏ Biển
Ngày đầu ra khơi
Tôn Thất Phú Sĩ
Một chốn trụ hình
Tầm Xuân
Quê nhà, Biển và Odyssey
Vũ Hoàng Thư

Biên khảo
Ai giết Lê Lai
Trần Việt Bắc
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 10
Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 17
Huỳnh Kim Khanh


 

Chén cơm và nước mắt

 

Mặc dù mùa Xuân vẫn còn, đặc biệt năm nay ve sầu đã xuất hiện sớm đầy cả vùng Maryland và các vùng lân cận Washington DC. Tiếng ve kêu vang cả ngày lẫn đêm như một đại giàng nhạc trong hí trường mở màn cho một mùa hè sắp tới. Năm nay đúng là 17 năm chu kỳ của loại ve “cicada” trở lại vùng nầy. Sau 17 năm kiên nhẫn nằm chờ trong quả trứng mỏng manh dưới lòng đất, ve con từ từ chui ra từ bọng trứng màu ngà. Để lại những chiếc trứng khô nhẹ như bong bóng bay theo chiều gió rồi dính vào thân cây, cành cây, lá cây và ngọn cỏ.

Vài ngày sau khi mọc cánh, cả trăm ngàn vạn ve con trưởng thành bay lên đậu cành cây cao bắt đầu gọi nhau như ca hát bằng cách đập hai cánh vào nhau phát ra âm thanh lạ vang khắp cả vùng. Những âm thanh đặc biệt nầy dùng để ve cái ve đực gọi nhau như gái trai gọi tình nhân. Chúng cùng nhau hưởng lạc, hưởng tình một cách vội vã sau 17 năm im lặng chờ đợi trong lòng đất. Ve hát vang như chào mừng cuộc giao tình dù cho cuộc đời quá ngắn ngủi nhưng cũng toại nguyện sau 17 năm đợi chờ. Hãy hưởng thụ nhanh rồi ngày mai sẽ không còn nữa. Ve đực chỉ sống được khoảng hai tuần rồi chết. Ve cái sống lâu hơn thêm khoảng 4 tuần nữa, đẻ trứng rồi chết theo ve đực. sau khi làm xong nhiệm vụ của người tình và người mẹ. Đến 17 năm tới chúng sẽ bắt đầu cuộc luân hồi. Nghĩ cũng lạ, tỉ lệ thời gian sống ngoài đời và sống trong bọng trứng thật là ngắn so với cùng tỉ lệ thời gian như vậy của con người. Chúng ta sống ngoài đời nhiều hơn sống trong bụng mẹ. Có lẽ trời cho chúng ta ra đời sớm để cày cấy lâu hơn.

Những buổi trưa nóng, tôi thường đi bộ ngang qua khu rừng nhỏ nơi tôi làm việc. để tâm thần yên tĩnh vào giờ nghỉ trưa. Nhìn khu cảnh rừng thường làm tôi nhớ về những ngày cải tạo trong khu rừng hoang du ở Việt Nam. Đặc biệt những ngày gần đây, tiếng ve sầu buồn bã nầy không ngừng mang tôi về lại khoảng 29 năm về trước với tiếng ve sầu bên cánh khu rừng ở trại cải tạo Kàtum, Xuân Lộc, Long Giao. Nơi đây tôi và Đắc cùng hàng ngàn sĩ quan VNCH đã bị giam cải tạo.

Vì đói quá, gặp cái gì ăn mà không chết liền, anh em chúng tôi bở vào miệng ăn ngay. Chút nữa nếu có chết là hết còn lo gì cả. Sống chín gì cũng thấy ngon cả. Các con động vật biết bay biết bò là có giá trị nhất vì chúng có chất bổ dưỡng. Bắt được ve để ăn thì hiếm lắm vì ve ở trên cây cao và rất ít. Giờ đây tại vùng Washington, DC nầy có cả trăm ngàn con ve bay đầy như muỗi vùng Năm Căn. Ước gì trong thời gian ở cải tạo, anh em bắt ăn được những con ve mập béo to như dế cơm nầy ăn một bụng no nê rồi tới đâu thì tới.

Sau khi kéo khúc cây ra khỏi cánh rừng rậm, trong khi chờ tên vệ binh dẫn về trại, Đắc chặt cây tre tầm dông cao xong rồi, Đắc lấy trong túi một gói nhựa cây lấy từ mũ cây ra gắn vào đầu cành tre. Với cặp lỗ tai thính và cặp mắt tinh điêu luyện, tìm được ve đậu trên cành lá cây cao, Đắc cẩn thận dùng hai tay chóng đưa đầu tre có nhựa cây dí dính vào con ve. Rồi từ từ hạ cành tre với con ve dính ở đầu xuống. Được con nào Đắc bỏ vào miệng nhai giòn ngọt lịm. Hôm nào bắt được nhiều, Đắc đem ve về trại nướng than thật thơm như khô mực nướng chia cho các bạn đang nhìn chảy dòng nước miếng ăn.

Đắc và tôi cùng ở chung một tổ từ ngày trình diện cải tạo tại trường Trung học Chu văn An. Chúng tôi mai mắn ở chung với nhau qua nhiều trại khổ cực có nhau. Thường chia xẻ miếng ăn khi đói, chia nhau từng viên thuốc tây quý báo khi bệnh. Sau ba năm cải tạo, mai mắn thai tôi gặp lại Đắc ở trại cải tạo Thành Ông Năm vùng Hốc Môn sau khi chúng tôi bị tách rời ở trại Long Giao một thời gian. Số trời đã định tôi và Đắc lại ở chung tổ ăn uống ngủ gần nhau.

Những ngày cuối cùng của tôi ở trại Hốc Môn, tôi nói cho Đắc hay là tôi quyết định trốn trại. Đắc nửa lo nửa mừng. Lo vì sợ tôi sẽ bị bắt lại bi hành hạ, rồi bị tử hình. Mừng vì tôi sẽ được tự do nếu tôi trốn thoát. Chính Đắc không sợ nguy hiểm cho bản thân mình đã làm giúp tôi những sợi dây thừng để tôi đem khi trốn, làm con dao sắc bén làm bằng đai ba-lô, mài cọng sắt to để thành kim nhỏ cho tôi may quần jeans để mặc sau khi trốn ra trại. Thêm nữa, Đắc nhường cho tôi chén cơm của mình vào buổi cơm chiều cuối cùng vào đêm tôi trốn trại. Đắc muốn cho tôi được ăn nhiều hơn vì nếu có chết cũng không thành ma đói. Cũng giống như cho một tử tội được ăn no trước khi bị đao phủ thủ chặt đầu.

Điều quý nhất là Đắc không bán tôi cho bọn quản giáo như những tên an-ten khắc đã báo tin cho bọn Công Sản về việc bạn mình định trốn trại. Nếu chỉ cần báo tin tôi trốn trại, Đắc chắc chắn được thả về gia đình ngay. Vào đêm hè năm 1978, tôi cắt rào trốn rạ Để Đắc và các bạn thân ở lại lòng tôi lúc nào cũng lo cho họ. Bọn Cộng Sản thế nào cũng bắt tội các bạn trong tổ là đồng lõa với tôi, nặng tội nhất là Đắc vì chúng biết tôi và Đắc thân với nhau. Sau khi trốn ra thành công, tôi có về Sàigòn gặp vợ Đắc và cháu gái nhỏ. Trong ánh mặt ngạc nhiên của vợ Đắc, tôi cho biết là tôi là bạn Đặc vừa trốn trại ra. Từ đó tôi không còn nghe tin tức về Đắc và gia đình Đắc nữa.

Quả đất tròn và trời không phụ lòng người, tôi có dịp gặp lại Đắc và gia đình nhân dịp Đại Hội OCS 8 tổ chức tại San Jose. Đắc và gia đình được qua định cư tại Mỹ vùng San Jose theo viện HỌ Chúng tôi nước mắt rưng rưng mừng nhau không nói nên lời. Sau đó Đắc có dịp kể tôi nghe những gì xảy ra sau khi tôi đột ngột trốn đi.

Sau một thời gian tôi trốn trại, Đắc bị tình nghi là giúp đỡ tôi, rồi bị chuyển tới một trại khác nơi rừng hoang nước độc do bọn Công an Cộng Sản điều hành. Nơi đây mới đúng nghĩa của trại lao động mà bọn Cộng Sản thường tự hãnh diện cho rằng bất cứ con người nào dù có đầu óc cứng cỏi như sỏi đá rồi cũng phải mềm và thay đổi lại sau một dài thời gian cải tạo. Nói tóm lại nơi đây thực sự là nơi tẩy não chế độ cũ và nhồi sọ anh em cải tạo với chủ thuyết Cộng Sản.

Ban ngày cả tổ đi lao động nào khai rừng cuốc đất trồng khoai, đào giếng, thông hào đến kiệt lực. Đến đêm về trại bị bắt đi xem những bộ phim ảnh tuyên truyền về Xã Hội Chủ Nghĩa. Chúng cứ lập đi lập lại thật là nhàm chán. Quá mệt mỏi thêm đói lả, đêm nay mặc dù cố gắng xem phim để không bị trừng phạt, nhưng Đắc không thể tránh được giấc ngủ mãnh liệt tràn vào đầu như một cơn sóng to vỡ bờ. Trong giấc ngủ say Đắc mỉm cười mơ về quê nhà thật xa xôi. Nơi đây có người vợ trẻ đẹp và đứa con gái đầu lòng thơ dại đang đợi Đắc từng ngày từ khi Đắc rồi gia đình đi trình diện học tập. Đắc lại mơ thấy mình trong bộ Quân cảnh ủi hồ láng bóng, giày da đen đánh bóng như gương. Với cặp lon hai bông mai vàng của sĩ quan quân cảnh QLVNCH trên đôi vai, từ đồn đơn vị Đắc lái xe jeep về trại gia binh gặp vợ đẹp và đứa bé gái nhỏ. Nơi đây Đắc là trưởng đồn quân cảnh Vĩnh Long. Chỉ có mơ trong giấc ngủ mới kéo Đắc ra khỏi những sự thật của một cuộc sống hàng ngày khổ cùng, chán nản, không có hy vọng và không có ngày mai trong trại cải tạo.

Sau những cơn ngủ mơ dù là rất ngắn, Đắc cảm thấy như mình vừa uống một viên thuốc bổ an thần đem lại sư hồi sinh cho Đắc. Nhờ viên bổ thần diệu nầy mới chống lại những ngày dài đau khổ kiệt quệ cùng đem lại sự hy vọng một ngày mai sẽ trở quê nhà gặp lại vợ con. Một ước mộng đơn giản thế thôi. Biết bao giờ mới thành sự thật.

Thình lình nghe cái gì đập lên đầu như trời giáng, Đắc giật mình tỉnh dậy và định chửi thề vì tưởng thằng bạn bên cạnh phá đám. Nhìn kỹ lại thì thấy ánh vàng từ bộ răng vàng hô lóng lánh tỏa ra cùng bộ áo quần màu vàng với chiếc nón cối trên đầu, Đắc biết ngay là nguy rồi. Đắc tư than vãn trong lòng:

“Bị thằng Tư răng vàng bắt gặp mình đang ngủ gục thì chết mẹ rồi”.

Anh Tư răng vàng, một tên công an nổi tiếng hắc ám nhất của trại tù nầy. Sợ quá Đắc vội cười tài và định muốn xin lỗi nhưng lại không vì không muốn làm việc hèn hạ như vậy. Anh Tư răng vàng nóng giận quá lấy bán súng colt thộn vào đầu Đắc thêm mấy cái nữa. Thấy ngôi sao chóp sáng trong đầu, Đắc cảm thấy trái đất quay cuồng. Sau khi ngã quỵ xuống, Đắc còn nghe văng vẳng tiếng của anh Tư răng vàng:

” Khiêng nó đi ngay. Bỏ tật ngủ gục và từ nay thằng nào còn cười trước mặt tao thì xem đó làm gương.”

Ngoài những đêm bị bắt coi phim tuyên truyền, còn những đêm khác thì ngồi chung nhau họp tổ kiểm điểm, phe bình công việc lao động trong ngày. Không những phê bình cá nhân mà còn phê những người khác trong tổ hoặc trong đội. Đây cũng là một hình thức độc ác của bọn Cộng Sản dùng để chia xẻ. Làm anh em cải tạo xem xét bạn mình, rình rập, nghi kỵ lẫn nhau. Cũng là dịp bơi mói nhau từ thời ông bành tố đến giờ.

Ngoài chuyện gây xẻ cho nhau, vụ tự phê bình còn bắt mọi người phải tự động làm lao nhiêu thêm để vượt hơn tiêu chuẩn mà mình đã đạt ngày hôm qua. Nếu làm thấp hơn mức tiêu chuẩn, cơm phần và thức ăn sẽ bị cắt bớt. Ngoài ra, bọn Cộng Sản còn đưa thêm tiêu chuẩn của anh hùng cải tạo lao động khác tổ để bắt các anh em phải noi theo. Tự hào và kiêu ngạo vào thời chiến tranh chúng thường đưa ra những mẩu chuyện trẻ con như anh hùng chống Mỹ Ngụy, anh hùng bắn máy bay Mỹ nầy nọ để đưa bao nhiêu người dân vô tội vào con đường tử thần.

Kết qủa cuối cùng của cuộc đấu tranh tiêu chuẩn và đấu tố lẫn nhau làm bao người cải tạo khốn khổ. Họ chỉ còn cách buông tay ngã gục xuống vì thân thể điêu tàn của họ không thể chịu nổi sự hành hạ nữa do sự thiếu dinh dưỡng cùng bịnh tật trong gông tù của bọn Cộng Sản.

Đắc được anh em bầu làm tổ trưởng kỳ nầy. Cả tuần nay anh Thái trong tổ bệnh đau ruột dầy, không đủ sức cuốc 4 luống khoai trong một ngày như tuần trước anh được chọn là người xuất sắc vì đạt tiêu chuẩn cao nầy. Trong tuần đầu sau khi làm xong phần luống của mình, anh em trong tổ phần nhiều là tổ trưởng Đắc cố gắng chia nhau cuốc phụ cho anh Thái. Đắc không dám báo cáo bịnh của anh Thái vì lo cho anh Thái sẽ bị phê bình và bị phạt.

Thời gian dài khá lâu trôi qua, Đắc và anh em trong tổ không còn đủ sức để cuốc gánh phần luống của Thái trong lúc anh đang bị bệnh. Đắc mới đành báo cáo là anh Thái bị bệnh không thể đạt tiêu chuẩn nữa. Đắc xin giảm mức tiêu chuẩn cho tổ. Thêm nữa Đắc xin anh em trong tổ đừng phê bình Thái mọi đêm nữa. Bọn Công An quản giáo không tin anh Thái bị bệnh thật. Bọn Công An và một nhóm tên cải tạo hèn hạ vẫn cho là Thái làm biếng khai bịnh vì muốn trốn tránh lao động. Miệng lưỡi chúng lúc nào cũng nói lao động là vinh quang. Mỗi ngày, chúng hăm dạo là sẽ không cho Thái gặp gia đình và bị điểm xấu không được Cách Mạng cho về.

Bị đe dạo, kiểm điểm hàng đêm, Thái sợ quá đành phải tự nói dối với anh Tư răng vàng là Thái không có bệnh gì cả. Tổ trưởng Đắc báo cáo sai vì Đắc làm biếng chưa học tập tốt. Dùng anh Thái để được giảm tiêu chuẩn lao động cho tổ. Đắc bị anh Tư răng vàng và hai tên công an bắt còng tay đẫn đi nhốt vào nhà tù nhỏ riêng. Bị hành hạ đánh đập tra hỏi thường xuyên, nhưng Đắc vẫn không hề ngã lòng. Thêm vào đó, khẩu phần ăn của Đắc đã ít rồi lại còn bị cắt giảm hơn phân nửa. Cuối cùng chúng chỉ cho Đắc ăn và uống vừa đủ để sống. Sau một thời gian, Đắc ốm xanh xao chỉ còn có da để bọc xương.

Thái cảm thấy hối hận vì mình mà Đắc mới bị hành hạ như vậy, Thái muốn làm cái gì để chuộc lại lỗi lầm mình. Một đêm Thái lều mạng mò đến nhà tù nơi đang nhốt Đắc để gặp và xin lỗi Đắc. Thái có mang theo một chén cơm mà anh nhịn ăn chiều nay để dành cho Đắc và hứa rằng mỗi đêm Thái sẽ mang cho Đắc một chén cơm phần của Thái. Mong Đắc nhận lấy chén cơm nầy ăn để còn sức khỏe trở về lại tổ gặp anh em và hy vọng còn sống trở về gặp gia đình. Đắc nhìn Thái nói rằng Đắc không có giận Thái vì hiểu mọi việc là do bọn Cộng Sản bày ra và không dám nhận chén cơm nầy vì Đắc đã chịu đói quen rồi. Hơn nữa Thái cũng cần ăn để sống trở về đoàn tụ gia đình Thái. Thái cầm lại chén cơm đầy. Nước mắt anh vô tình rơi vào chén cơm. Với lòng đau như quặn, Thái từ giã Đắc mò về trại trở lại.

Tiếng ve sầu đã hầu như biến hẳn để lại sự êm lặng của mùa Hè oi ả. Mùa Hè đã thật sự đến vùng Washington DC với những ngày nóng bỏng đầy hơi ẩm. Những cơn gió cơn mưa rào đến vào buổi chiều đã rửa sạch những xác chết của ve. Cát bụi trở về cát bụi. Trứng ve “cicada” chìm sâu vào lòng đất chờ 17 năm sau ve sẽ trở lại ca hát cho đời. Tự hỏi mình tại sao lại đúng 17 năm?


Nguyễn Hồng Quang
Mùa hè 2004, vùng Hoa-Thịnh-Đốn