SỐ 29 - THÁNG 1 NĂM 2006

 

Thơ
Ngõ cúc vàng xuân xa
24 Vũ Hoàng Thư
Bồ Tát
23
Hoàng Du Thụy
Đêm biển động
21
Huỳnh Kim Khanh
Rồi chỉ còn lại nỗi buồn
19
Nguyễn Xuân Vời
Lữ khách
20
Trần Việt Bắc
Noel hy vọng
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Đếm sao
18
Kim Thành
Ta mất mùa xuân
17Ngọc Trân
Sóng ở đáy sông
17Maihoado

Truyện ngắn, Tâm bút
Mùa xuân trong hạ
15
Nguyên Nhi
Người đưa thư ở Cabramatta
14
Phan Thái Yên
Lao vào lửa
13
Hoàng Du Thụy
Thời kiêu bạc
12
Phạm Hồng Ân
Ru tôi mộng lành
8Song Thao
Mùa xuân trên thành phố
7Cỏ Biển

Phiếm luận văn chương
8Huỳnh Kim Khanh
Năm Bính Tuất nói chuyện chó
8Trương Thanh Diễm Thùy

Văn học, biên khảo
Ngày xuân, ngày Tết
4Xuân Phương
Nhà Trần khởi nghiệp (3)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành
4Ngô Văn Xuân
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 16

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
2 Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 23
1 Huỳnh Kim Khanh


 

Nhà Trần khởi nghiệp

(Tiếp theo kỳ trước)

Trần Việt Bắc

“Sứ quân” Nguyễn Tự

Như đã được trình bày trong phần trước, Nguyễn Tự vốn là một bộ tướng của Tô Trung Từ, vì có hiềm khích giữa ông này với con rể của Tô Trung Từ là Nguyễn Đà La, Nguyễn Tự muốn giết La rồi làm phản, Trung Từ được Nguyễn Giai là tướng dưới quyền của Nguyễn Tự báo cho biết sự việc, Nguyễn Tự sợ bị hại nên bỏ trốn sang Quốc Oai (1), rồi gặp cơ hội và trở thành “đầu sỏ” ở vùng này.

Nguyễn Tự thành một “sứ quân” cũng chỉ được một thời gian ngắn là 8 tháng (Từ tháng 6 năm năm Tân Mùi (2)1211, ,  đến tháng 2 năm Nhâm Thân,1212), ĐVSL viết: “Lúc bấy giờ Nguyễn Tự nghe Tô Trung Từ đã chết bèn trở về kinh sư, ban đêm dẫn đồng đảng ra đánh cắp hoá vật ở trong phủ của nhà vua. Vua giận hạ chiếu bắt Nguyện Tự rất gắt gao. Nguyễn Tự chạy trốn sang vùng Sơn Lão thuộc Khô Sách. Trong vài tháng thì áo cơm đều cùng quẫn thiếu thốn cả mới toan về với Trần Tự Khánh. Lúc đi vào trong ấp Than, các bậc phụ lão ngăn cản giữa đường, xin lưu lại mà thưa rằng “Đất này khốn khổ với người Sơn Lão đã lâu rồi. Xin Minh Công, nếu có thể lưu lại trong ít lâu thì một giải ấp này mà sống được không phải là ít. Nguyễn Tự mới quyết định ở lại. Rồi thì mở cuộc hội họp lớn, người trong ấp giết trâu, uống máu mà thề ước với nhau. Nguyễn Tự đem những mối lợi hại ra phủ dụ, dân chúng trong ấp đều nghe theo rồi “vâng, dạ” hết cả. Nguyễn Tự thấy được lòng dân chúng, mói bèn dẫn binh đi đánh phá Sơn Lão, chém đầu giặc rồi trở về. Lại sai làm hơn vài chục hình người bằng cỏ, mỗi hình người có cầm đuốc, ban đêm đặt trong làng Sơn Lão. Sai người theo giữ mà răn bảo rằng : Hễ các anh thấy ở nhà Sơn Lão cháy rực lên thì phải cấp tốc đốt đuốc rồi kêu la huyên náo lên nhé!”. Nửa đêm sai Nguyễn Cuộc đốt nhà bọn Sơn Lão. Người giữ (những hình nộm-ND) thấy lửa phát cháy cũng đốt đuốc mà la réo lên. Bọn Sơn Lão kinh sợ vùng dậy một cách gấp gáp và sắp muốn cự chiến, nhưng lại nghi ngờ là trước sau đều có binh lính đông mà không ra đánh. Rồi cả bọn đều hướng về cái làng ở phía trước mà bắn, nhưng lại sợ Nguyễn Tự dẫn binh đến nên xin đầu hàng. Từ đó một giải quận huyện đều về tay Nguyễn Tự”.

Theo như những diễn tả khá chi tiết trong ĐVSL, Nguyễn Tự cũng là một nhân vật có bản lãnh, đã dám chống lại chủ tướng (Trung Từ, người đang khuynh loát triều đình ) cùng người con rể của ông này . Từ lúc “áo cơm đều cùng quẫn thiếu thốn” (ĐVSL), ông ta đã tạo được cơ hội riêng và thế đứng riêng cho mình (dẹp giặc Sơn Lão), liên minh với Trần Tự Khánh để chia vùng “tự trị”. Lúc này Trần Tự Khánh đã là một “sứ quân” hùng mạnh.  ĐVSL viết: “Quan Minh Tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh cùng với Nguyễn Tự họp nhau ở bến Triều Đông thề là đến chết vẫn kết giao với nhau mà hết lòng giúp nước, cùng chung dẹp yên cho dân cái họa nhiễu loạn. Rồi chia theo hai bờ con sông lớn, mỗi người tự quản lãnh một bên. Từ Thượng Khối đến Na Ngạn (3), con đường ven theo Bắc Giang và làng ấp ở Lục Lộ thì thuộc về Trần Tự Khánh, Từ Kinh Ngạn đến Ô Diên thì thuộc về Nguyễn Tự”.

Vùng đất mà  Nguyễn Tự chiếm đóng ở phía tây của kinh thành Thăng Long, có lẽ gồm những huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thạch Thất  thuộc phía bắc tỉnh Hà Tây ngày nay. Tuy nhiên số phần của ông này ngắn ngủi: “Tháng 2, Nguyễn Tự đánh người Cát Lợi là Ngô Thưởng Vu và Võ Cao, bị tên bắn trúng bèn trở về ngõ Tây Dương (4). Hơn một tuần thì vì lầm lỡ ăn nằm cùng với đàn bà nên khí độc lại phát lên mà chết” (NV: ?!). Sau khi Nguyễn Tự chết, “Nhà vua sai người đến vỗ về dân chúng ở đấy. Nhưng người vua sai ấy bị tên phó tướng ở đấy là Nguyễn Cuộc giết. Nhà vua giận lắm, mới tự làm tướng dẫn quân đi đánh Nguyễn Cuộc ở ngoài thành Tây Dương. Lúc tiến đến ngõ Phổ Hỷ, quan quân nhà vua thua to. Cây bảo kiếm nhà vua dùng cũng mất. Vua phải ra roi giục ngựa mà chạy về đến ngõ Diêu Tắc mới thoát được” (ĐVSL). Lúc này thì triều đình nhà Lý đã xuống dốc đến độ thê thảm. Sứ giả được nhà vua cử đi để vỗ về dân chúng thì bị giết, rồi chỉ vì một tên phó tướng của một đám loạn quân dám giết sứ giả, nhà vua vì nóng giận mà phải thân chinh để dẹp giặc đến độ gần bị mất mạng, nhà Lý đã hết người! Thế là vùng đất này lọt vào tay Nguyễn Cuộc. Người viết không thấy sử liệu nào nói về viên tướng này, có lẽ vì sự kết giao của Nguyễn Tự và Trần Tự Khánh nên vùng này chưa bị Tự Khánh “để ý” tới chăng? Lúc này Trần Tự Khánh đã chiếm cứ quá nửa vùng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên hai năm sau, năm 1213 , tức là năm Kiến Dậu (năm Kiến Gia thứ 3),  “Trần Tự Khánh đánh châu Quốc Oai, châu này phải hàng” (ĐVSL). Vậy là vùng đất thuộc Nguyễn Cuộc lại bị đặt dưới sự quản trị của Trần Tự Khánh.

Sứ quân” Trần Tự Khánh.
Trong các “sứ quân” cuối thời Lý thì Trần Tự Khánh có lợi thế và hùng mạnh hơn cả. Sau khi Trần Lý chết, toàn bộ binh lực của ông này trao cho người con  thứ hai là  Trần Tự Khánh, em của Trần Thừa, anh của Trần Thị Dung ( là Nguyên phi của vua Lý Huệ Tông).

Trần Tự Khánh là người có nhiều tham vọng. Ông này đã có lần kéo quân về kinh thành, cướp bóc tài sản của hoàng cung, nhưng lần này đã bị dân chúng kinh thành đánh đuổi. Lần thứ hai lại kéo quân về kinh sư với lý do là viếng tang vua Cao Tông để mưu đồ riêng tư, tuy nhiên bị cậu ruột là Tô Trung Từ nghi ngờ, Trần Tự Khánh bèn kéo binh về lại Thuận Lưu và im lặng đợi thời cơ.Tô Trung Từ chết, cục diện tại kinh thành bắt đầu thay đổi.

Người con rể của Tô Trung Từ là Nguyễn Ma La (cũng gọi là Nguyễn Đà La), có lẽ cũng muốn ngồi vào vị trí của ông bố vợ, nhưng thấy mình khó mà làm chủ được toàn bộ binh lực của họ Tô (vốn đã có sự chia rẽ giữa các bộ tướng của Tô Trung Từ), hơn nữa ông này cũng thấy là họ Đoàn ở vùng Hồng đâu có bỏ qua cơ hội để mang quân về kinh thành. Nếu Đoàn Thượng dẫn quân về kinh thành thì Nguyễn Ma La sẽ bị nguy khốn. Ông này bèn: “sang nói với Thái Tổ (5) ta (Trần Thừa) xin tiến binh dẹp yên ấp Khoái. Nguyễn Ma La cùng với vợ của y là Tô thị lên thuyền sang đạo Thuận Lưu để gặp tướng của Tô Trung Từ là Nguyễn Trinh thì bị Nguyễn Trinh giết rồi cướp lấy Tô thị đem về. Tô Thị sai người tố cáo với Thái Tổ. Thái Tổ giận Trinh phi nghĩa bèn âm mưu giết Trinh….Thái Tổ đóng ở Hải Ấp sai người đi triệu Nguyễn Trinh, Nguyễn Trinh không đến. Thái Tổ bèn sai Tô thị dụ Trinh để giết đi” (ĐVSL). Trong khi Trần Thừa bận đối phó với Nguyễn Trinh, Trần Tự Khánh không để lỡ “dịp may” và lập tức kéo quân về kinh sư (?). Mặc dù ĐVSL đã không nói rõ ràng, nhưng đã viết: “Trần Tự Khánh an táng Tô Trung Từ ở làng Hoạch… . Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nói vu Trần Tự Khánh với vua rằng: “ Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập”. Vậy là “sứ quân” nào cũng muốn mang quân về kinh sư, tìm cách khống chế và lợi dụng triều đình để có được chữ “chính nghĩa”. Trần Tự Khánh thì lấy lý do là  lo an táng cậu của mình. Họ Đoàn ở vùng Hồng vì chưa kịp mang quân về, bèn dùng kế “vu oan giá họa (6)”  để tìm cơ hội. Mà quả thật như vậy : “ Nhà vua giận. Mùa thu, tháng 7, vua hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh, và giáng Nguyên phi Trần thị xuống làm Ngự nữ. Người vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Nhà vua hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng ”. (ĐVSL).

Người viết không biết là Trần Tự Khánh có kéo binh được tới kinh đô hay không? Hoặc nếu tới được kinh đô thì ông này đóng quân tại đây được bao lâu? Hay là trên đường kéo quân tới kinh đô đã bị ngăn chận, vì nhà vua hạ  chiếu cho các đạo binh chận đánh .  Tuy nhiên Trần Tự Khánh cũng đã lấy được xác Tô Trung Tự về để chôn cất (7).

Để mở rộng ảnh hưởng, “Trần Tự Khánh đem binh đánh người ở vùng Ma La là Đinh Cảm, nhưng thua rồi rút quân về” (ĐVSL). Dù bị thua nhưng không từ bỏ ý định, hai tháng sau: “Mùa đông, tháng 10, Trần Tự Khánh lại đánh lấy ấp ấy. Đầu tiên đánh núi Đội (8), giết và bắt được rất nhiều người. Đinh Cảm phải chạy sang Sơn Lão” (ĐVSL). Người vùng Hồng đánh Nam Sách. “Dân Nam Sách  sai người đi cầu cứu Trần Tự Khánh. Trần Tự Khánh sai tướng là Đinh Khôi đánh vùng Hồng. Quân vùng Hồng thua chạy. Trần Tự Khánh lại đi kinh lược Lạng châu đến núi Tam Trĩ. Lúc bấy giờ hết cả đất đai ở đấy Trần Tự Khánh lấy được hết cả ” (ĐVSL). Trần Tự Khánh liên minh với “sứ quân” Nguyễn Tự. “Hẹn nhau đến tháng 3 (năm sau , 1212) họp binh đánh người vùng Hồng”( ĐVSL).

Tháng chạp, Trần Tự Khánh rầm rộ kéo binh đến đóng ở Tế Giang. Thái hậu nghe quân đến, ngờ Trần Tự Khánh có ý mưu việc phế lập” (ĐVSL). Tuy nhiên ông này cũng đã được nhà vua phong là Chương Thành hầu, có lẽ vì nhà vua bị Tự Khánh ép buộc, vì vua Huệ Tông đã phong tước hầu cho địch thủ của Tự Khánh là Đoàn Thượng, thế nên ông này muốn có danh chính ngôn thuận để cùng với Nguyễn Tự đánh người ở vùng Hồng chăng?   
Trần Tự Khánh vùng vẫy dọc ngang tại châu thổ sông Hồng trong suốt 14 năm, từ lúc mới nổi lên làm giặc, đánh phá cướp bóc kinh thành cho tới lúc làm tới chức Phụ quốc Thái Úy thì qua đời (1223) (9),  và được “truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương” (ĐVSKTT).

Nói về Trần Tự Khánh, sử gia Ngô Sĩ Liên viết về ông này như sau :

ĐVSKTT, tập 1, trang 338: “Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Năm đầu niên hiệu Kiến Gia, giặc cướp đua nhau nổi dậy, Huệ Tông nhu nhược không đánh dẹp được. Trần Tự Khánh vì cớ Huệ hậu bị thái hậu làm khổ mà đem quân phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy giờ, lòng người không thể không ngờ vực, cho nên Huệ [31b] Tông có lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm cho kỳ được mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải dời chổ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ hậu rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy không kể đến. Thế là việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không nêu lên nhưng thực cũng có nêu đấy. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi.”
Ông Ngô Sĩ Liên cho là Trần Tự Khánh đã có công về việc giúp vua Huệ Tông nhà Lý, nên đã xoá được cái tội làm kinh động đến nhà vua nhiều lần. Đấy là quan niệm của một Nho gia, nhưng người viết thì nghĩ hơi khác. Với thiển ý cá nhân, ông này đã từng là kẻ làm giặc. Để đạt mộng bá vương, ông ta đã gây nên biết bao chinh chiến điêu linh cho đất nước, sinh mạng những người dân vô tội bị ảnh hưởng nặng nề. Những hành động của Trần Tự Khánh đối dân chúng cũng như tài sản quốc gia:

Lần thứ nhất, năm 1209, Trần Tự Khánh đã kéo quân về kinh thành đốt phá và cướp bóc (đã trình bày ở phần trên).

Lần thứ hai, tháng 9, năm 1214, “Trần Tự Khánh thả quân sĩ đi cướp lấy các tài vật trong phủ của nhà vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung thất và nhà dân ở trong kinh thành” (ĐVSL).

Lần thứ 3, tháng tư năm 1215, “Ngày nọ Trần Tự Khánh phát binh đi cướp vàng bạc và tài vật ở trong phủ đường của các quan. Nhân đó mới đón Nguyễn (NV: Lý) Vương đi đến hành cung Lị Nhân. Rồi sai Lại Linh đốt cung thất ở kinh đô, gồm có 19 sở” (ĐVSL)

Lần thứ 4, Năm 1215, “Tháng 3, Trần Tự Khánh đánh làng Khoái và san bằng làng này” (ĐVSL).
Lần thứ 5, năm  1217, “Thái úy Trần Tự Khánh dẫn binh đánh Chân Na thuộc Phong Châu. Xứ ấy đều bị đánh tan hoang cả” (ĐVSL).

Chỉ có một lần người dân không bị càn quét được nhắc tới là: “Thái Uý lại dẫn quân đánh Hiển Tín Vương Nguyễn Bát (10) và hương ấp ấy được bình yên”.

Những hành động của Trần Tự Khánh nêu trên bị coi như là những hành động của một tướng cướp. Tháng 5 năm 1216 (Bính Tý), “Ngày Giáp Thìn, nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh….. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống nhảy múa hoan hô nhà vua. Từ đó nhà vua cùng với Trần  Tự Khánh có ý quyết đánh Vương tước ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, Hiển Tín Vương  là Nguyễn (Lý) Bát cùng người ở vùng Hống là Đoàn văn Lôi, và người Qui Hoá lá Hà Cao v.v…”(ĐVSL). Lúc này, Trần Tự Khánh có nhà vua bên cạnh nên có vẻ “đàng hoàng” hơn, bởi thế; người viết tự hỏi: vì Trần Tự Khánh cảm thấy có được “chính nghĩa” , nên ông này đành bớt những hành động giặc cướp của mình, hay là Trần Tự Khánh thấy mình sắp làm vua đến nơi (?), nên phải có những hành động xứng đáng của một bậc đế vương trong tương lai!  Xin để độc giả nhận xét.

Trần Tự Khánh có mưu đồ vương bá hay không? ĐVSL viết: “ Năm Mậu Dần (1218)….Ngày đó Thái Úy (Trần Tự Khánh-ND) dẫn binh đến trạm Nỗ (Nõ) ngồi nghỉ. Thái úy giỡn chơi, chỉ cái cành nhỏ trên cây mà bảo kẻ tả hữu rằng: “Như ta làm vua, bọn các ông xem ta bắn cái cành cây nhỏ kia một phát thì trúng”. Thấy vậy quân tướng đều vừa sợ vừa  phục. Nhưng một lát sau cái trạm ấy sụp đổ, đè lên người Thái úy. Quân sĩ sợ lắm, vội lo tìm bới mãi mới thấy Thái úy. Vậy mà Thái Úy vẫn không hề gì”.

Dù ĐVSL viết là “Thái úy giỡn chơi”, nhưng ý của ông này cũng đã khá rõ rệt. Nếu triều Lý còn đang thịnh, một viên tướng cầm quân mà  nói “giỡn chơi” thế này thì cái hoạ diệt tộc không xa, may cho Trần Tự Khánh, nhà Lý đã suy vong cực độ; nên ông này mới không biết sợ và dám nói như trên. Tuy nhiên Trần Tự Khánh chắc là cũng bị một phen sợ bở vía, vì vừa thốt ra câu nói “giỡn chơi” thì Thái úy bị cái nhà trạm sụp đè gần chết ! Có lẽ vì cái điềm này mà Trần Tự Khánh sợ chăng! Năm năm sau binh lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh, quyền lực càng cao, chức vụ đã lên đến tuyệt đỉnh -chức Phụ quốc Thái úy- nhưng cho tới khi chết (1223), người viết chưa tìm thấy sử liệu nào nói là Trần Tự Khánh đã có ý định tiếm ngôi nhà Lý.

Theo thiển ý của người viết thì Trần Tự Khánh cũng có những điểm hay, như sự tổ chức quân đội, đặc biệt là thủy quân. Tổ tiên của ông này đã mấy đời làm nghề chài lưới và đã trở nên giầu có vì nghề này. Một đội ngư thuyền để xử dụng cho việc đánh cá là điều ắt phải có. Nhiều kinh nghiệm về thuyền bè là chuyện tất nhiên. Khi đất nước nhiễu loạn, để tự bảo vệ mình, đoàn ngư thuyền này được cải tiến thành một đội thủy quân với những thủy binh điêu luyện là chuyện không đến nỗi khó khăn. Trần Tự Khánh đã làm điều này, và đã chiếm ưu thế trong những cuộc chiến thời loạn lạc. Căn cứ của họ Trần ở huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường, nằm ngay trên bờ nam sông Hồng, nên việc tiến lui đều nhanh chóng và hiệu quả. Trần Tự Khánh đã nhiều lần đưa thủy quân về uy hiếp kinh thành. Từ những ưu thế về thủy quân, nhà Trần đã dựng được một đội thủy quân kiêu hùng vào bậc nhất vùng Đông Nam Á,  để sau này đã ba lần đánh bại được đội quân Nguyên Mông hùng mạnh, thủy quân Đại Việt đã góp công rất lớn, đặc biệt là trận Vân Đồn và trận sông Bạch Đằng . Việc làm này của Trần Tự Khánh đối với quốc gia; dù gián tiếp cũng nên được nhắc đến.

Một điểm nữa là sau khi vua Huệ Tông về với Trần Tự Khánh, thì ông này đã liên tục ra công giúp nhà Lý đánh dẹp các “sứ quân” khác, để cho đất nước bớt cảnh chia năm xẻ bẩy. Những năm cuối đời của Trần Tự Khánh cho tới đầu đời Trần, đất nước đã bớt cảnh ly loạn ly. Chỉ còn lại hai “sứ quân” là  Nguyễn Nộn hùng cứ ở Bắc Giang và Đoàn Thượng ở vùng Hồng là chưa dẹp xong.

Những việc Trần Tự Khánh đã làm, xin để cho lịch sử phán xét, người viết chỉ mạo muội trình bày cũng như sắp xếp lại những dòng sử liệu trong thời điểm này, đồng thời cũng xin góp thêm vài thiển ý cá nhân để mong rằng sự việc sẽ sáng tỏ thêm được phần nào.

“Sứ quân” Đoàn Thượng

Đoàn Thượng được kể là một sứ quân có nhiều bản lãnh ở vùng Hồng. Ông này và Đoàn Văn Lôi là những địch thủ đáng gờm của anh em họ Trần cũng như Nguyễn Nộn.

Vùng Hồng theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (QSQTN), tập 3, nói về tỉnh Hải Dương, trang 376 và trang 378, phủ Bình Giang và Ninh Giang : “Xưa gọi là Hồng châu cuối đời Trần chia làm châu Thượng Hồng và châu Hạ Hồng…”. Vậy vùng Hồng gồm các huyện  Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ ở phía nam tỉnh Hải Dương ngày nay.

Nói về Đoàn Thượng, ĐVSKTT viết:[28b] Nhâm Thân, [Kiến Gia] năm thứ 2 [1212] , (Tống Gia Định năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, sai người cùng một vú nuôi (NV:?) là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn, [Đoàn] Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm, cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được”.

Tương tự như ĐVSKTT, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KDVSTGCM) của QSQTN với: “Lời chua: Đoàn Thượng người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc”,  tỉnh Hải Dương (vùng Hồng). Năm 1212, “Đoàn Thượng chiếm cứ huyện Đường Hào (11) thuộc Hồng Châu, đắp lũy ở xã Yên Nhân, biên tên những quân dân ở các làng ấp bên cạnh sung vào việc phòng thủ”. (KĐVSTGCM).

Có sự khác biệt giữa các sử liệu về thời gian Đoàn Thượng nổi lên. ĐVSL viết: “Năm Tân Tỵ (năm 1211-ND) là năm Kiến Gia thứ nhất: ….Tháng 6, …Người trong vùng Hồng đánh ải Quảng Điểm…. Mùa thu, Tháng 7…. Người ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư”. Vậy năm 1212, Đoàn Thượng đã là thủ lãnh vùng Hồng từ lâu. ĐVSL ghi lại nhiều chi tiết về những sự việc trong thời gian này, nên người viết xin dùng ĐVSL như là tài liệu chính cho bài viết.

ĐVSL viết: “Năm Đinh Mão (năm 1207-ND) là năm Trị Bình Long Ứng thứ 3:…Mùa thu tháng 3 Đoàn Thượng và Đoàn Chủ làm phản. Nhà vua sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông xuất phát đạo Đại Thông,. Bảo Trinh hầu xuất phát đạo Nam Sách. Quan Thượng phẩm Phụng Ngự là Phạm Bỉnh Di xuất phát đạo Khả Liễu. Quan Chi hậu Hoả đầu là Trần Hinh xuất phát đạo Phù Đái. Các đạo sắp sửa muốn họp nhau để đánh. Đoàn Thượng đương khi ấy ngầm sai người đút lót quan Thượng phẩm Phụng ngự là Phạm Du xin hãy rút quân về. Phạm Du hết sức xin vua và được vua sai sứ triệu bọn Đàm Dĩ Mông rút quân về, Đoàn Thượng mới thoát khỏi trận ấy””.  Rồi tới  “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (năm Kỷ Tỵ-1209-ND)…Tháng 3…. Ngày Đinh Tỵ, Phạm Bỉnh Di lại đánh người ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Chủ tại Vệ Kiều. Người vùng Hồng thua tan, Đoàn Chủ bị hãm ở chỗ bùn lầy và bị Hà Văn Lôi đâm chết” . Vậy nếu theo ĐVSL thì Đoàn Thượng đã “làm phản” và hùng cứ ở vùng Hồng từ thời vua Lý Cao Tông. Với những chi tiết từ sự việc tới nhân vật nêu trên thì sử liệu trong ĐVSL đáng tin hơn, vì  ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM viết là năm “Kỷ Tỵ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 5 [1209]….”, để nói về cái chết của Phạm Bỉnh Di và lúc có loạn Quách Bốc, ĐVSL cũng viết là  Phạm Du chết năm 1209 (xin coi phần trên).

Theo như ĐVSKTT, thì không thấy bộ sử này viết rõ là Đoàn Thượng “làm oai làm phúc” và “cướp bóc lương dân” như thế nào, tuy nhiên ông này cũng đã được vua Huệ Tông phong tước hầu rồi tước vương và có một bộ tướng là Đoàn Văn Lôi đã được ĐVSL viết như sau: “Năm Đinh Sửu (năm 1217-ND)…. Quan Thái Uý (Trần Tự Khánh-ND) đem người em gái của y là Trần Tam Nương gả cho Hầu tước ở vùng Hồng là Đoàn Văn Lôi. Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm có trí lực, có tài năng và được lòng dân chúng, cho nên người vùng Hồng, đa số theo về với ông”. Năm 1217, Đoàn Thượng còn được phong tới tước Vương, ĐVSL viết: “(tháng 5) người vùng Hồng là Đoàn Thượng đem quân chúng ra hàng. Đoàn Thượng được phong tước vương” (12). “Sứ quân” vùng Hồng xưng hùng tại  chính quê quán của mình (huyện Gia Lộc) nên dễ  được dân chúng theo giúp, chắc hẳn ông ta cũng đã có những hành động được lòng dân, vì bộ tướng như thế thì chủ tướng cũng không đến nỗi tệ, nếu không muốn nói là phải tốt hơn. Thế nên Đoàn Thượng tung hoành được 21 năm (từ 1211 tới 1228) ở vùng này. Tới khi nhà Trần làm vua (Trần Cảnh lên ngôi tháng 12, năm 1225), Đoàn Thượng vẫn còn làm bá chủ vùng Hồng. Trần Thủ Độ cũng đã từng mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông này.

ĐVSKTT: “Thủ Độ cũng hẹn phong tước cho Đoàn Thượng, định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp”. Tới năm 1228 thì Đoàn Thượng bị Nguyễn Nộn đánh bại và bị giết. Không thấy sử liệu nào nói về viên bộ tướng Đoàn Văn Lôi sau khi vùng Hồng thất thủ. Khá  nhiều nhiều binh biến đã xảy ra giữa Đoàn Thượng và Trần Tự Khánh cũng như Nguyễn Nộn, người viết xin phép sẽ trình bày sau.

“Sứ quân” Nguyễn Nộn

Nguyễn Nộn hùng cứ ở Bắc Giang, xưng là Đại Thắng Vương, ông này là một “kỳ phùng địch thủ” của họ Trần và Đoàn Thượng . Họ Trần dù đã lên ngôi làm chủ Đại Việt nhưng vẫn không thể nào dẹp được ông này, đến độ phải phong vương và gả công chúa cho ông ta. Để tìm hiểu về “sứ quân” Nguyễn Nộn, trước hết xin phép lạm bàn về căn cứ địa của ông này: Bắc Giang.

Bắc Giang, theo như ĐNNTC,  tập 4, tỉnh Bắc Ninh, trang 54 : “Nước ta thời Tiền Lê là Bắc Giang; đời Lý là quận Gia Lâm; đời Trần là lộ Bắc Giang, lại gọi là lộ Kinh Bắc”. Lộ Bắc Giang tới “năm Quang Thuận (13) thứ 7, đặt Bắc Giang thừa tuyên; năm thứ 10 định bản đồ cả nước đổi gọi là Kinh Bắc, lãnh 4 phủ 20 huyện….Năm Hồng Đức thứ 21 gọi là xứ Kinh Bắc, sau gọi là Trấn” (ĐNNTG). Vậy Bắc Giang có thể coi như là tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Theo ĐVSL, năm 1209- Bắc Giang đang là đất của Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải, khi viết về  cái chết của Phạm Du : “(Phạm Du) bị người ở Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải bắt đưa cho Vương Tử Sam giết đi” (1209). Vậy Nguyễn Nộn thành “sứ quân” ở Bắc Giang từ khi nào?

ĐVSL viết: “ Năm Quí Dậu (năm 1213-ND) là năm Kiến Gia thứ 3….Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời viên tướng của y là Nguyễn Nộn về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng”. Theo như đoạn văn này thì  năm 1213, Nguyễn Nộn đã là bộ tướng của Trần Tự Khánh. Rồi khi nói về cái chết của  Nguyễn Nộn, ĐVSL viết: “Năm Kỷ Mão (năm 1219-ND) là năm Kiến Gia thứ 9….Tháng 6,…Lúc trước Thái Úy ( NV: Trần Tự Khánh) sai bọn Vương Lê đem binh về Nam Sách để cùng họp nhau mà mưu đánh Nguyễn Nộn…Mùa Đông, tháng chạp Nguyễn Nộn bệnh nặng. Quân của Thái Uý ở bến Triều Đông mà Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các người con của vua là bọn Công chúa ra hàng nơi Thái Uý”.  Vậy theo ĐVSL thì Nguyễn Nộn chết năm 1219.

ĐVSKTT viết: “Mậu Dần, [Kiến Gia] năm thứ 8 [1218] , (Tống Gia Định năm thứ 11). …Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu bằt cư sĩ ở chùa Phù Đổng (14) là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng”.
Rồi ĐVSKTT viết về cái chết của Nguyễn Nộnnhư sau: “Kỷ Sửu,[ Kiến Trung] năm thứ 5[1229] , (Tống Thiệu Định năm thứ 2, Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài năm thứ 1….Sau khi kiêm tính quân của Thương, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết.

Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tớihỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu. Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối”. Vậy theo ĐVSKTT thì Nguyễn Nộn chết năm 1229.

KĐVSTGCM viết : “Canh Thìn, năm thứ 10 (1220). (Tống, năm Gia Định thứ 13). Tháng 3, mùa xuân. Nguyễn Nộn giữ làng Phù Đổng540 , tự xưng là Hoài Đạo vương.  Nộn là cư sĩ chùa Phù Đổng, vì bắt được vàng và ngọc, không đem dâng triều đình, nên nhà vua hạ chiếu cho bắt. Tự Khánh xin cho Nguyễn Nộn tòng quân đánh giặc để chuộc tội; nhà vua ưng thuận, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh Mán Quảng Oai. Đến đây, Nguyễn Nộn tự xương vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp giặc để chuộc tội; nhà vua sai người đem sắc đến dụ bảo Nộn.

Lời chua - Phù Đổng: Tên làng. Nay là xã Phù Đổng, huyện Tiên Du .
Nguyễn Nộn: Người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” .

Rồi cũng tương tự như ĐVSKTT, KĐVSTGCM viết: “Kỷ Sửu, năm thứ 5 (1229). (Tống, năm Thiệu Định thứ 2).  Nguyễn Nộn chết”. Vậy theo K ĐVSTGCM thì Nguyễn Nộn chết năm 1229.

Thật là nan giải, ba nguồn sử liệu nói về Nguyễn Nộn khác nhau, từ khi trở thành một “sứ quân” cho tới lúc chết. Để tìm hiểu sự việc, với sử liệu giới hạn hiện có, người viết thấy chỉ có thể dùng sự suy đoán để phân tích, may ra có thể tìm được một chút manh mối nào hay chăng!

ĐVSL viết khá chi tiết về việc Nguyễn Nộn trở thành “sứ quân”, cũng như việc binh biến với các “sứ quân” khác. Tuy nhiên sau khi viết là Nguyễn Nộn chết năm 1219, thì sự việc chấm dứt ở đây. Như đã trình bày ở trên, vùng Bắc Giang, năm 1209 đang bị đặt dưới sự cai quản của Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải (15). ĐVSL đã không nói vì lý do nào Nguyễn Nộn thành bộ tướng của Trần Tự Khánh, cũng như việc ông này thành “lãnh chúa” ở Bắc Giang thay Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải. Qua ba danh xưng: Nậu, Nải, Nộn, rất có thể Nộn là em của hai ông Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải.

Những sự việc liên quan đến Nguyễn Nộn theo ĐVSL từ năm 1213 tới năm 1219:

-1213, tháng giêng, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang “mời” Nguyễn Nộn về kinh sư, Nguyễn Nộn bị Khánh giam giữ. Tháng 9, Trần Tự Khánh gả con gái của bà dì (16) cho Nguyễn Nộn.

-1214, tháng giêng, Nguyễn Nộn theo Trần Tự Khánh đánh kinh sư. Quân triều đình thua. Sau đó Nguyễn Nộn được Trần Tự Khánh cử đi giữ Bắc Giang. Tháng 3, Nguyễn Nộn bị người vùng Hồng là Đoàn Nhuyễn đánh, Nguyễn Nộn đánh lui người vùng Hồng và giết Đoàn Nhuyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng. Tháng 4, Nguyễn Nộn phản Trần Tự Khánh. Tháng 6, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn. Nguyễn Nộn được nhà vua phong tước hầu. Tháng 8, Nguyễn Nộn đánh Ô Kim hầu Nguyễn (Lý) Bát.
Những sự việc viết về Nguyễn Nộn theo ĐVSL:

- 1215, tháng giêng, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước Vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.

- 1216, tháng 5, vua Huệ Tông về với Trần Tự Khánh và sai Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn đồng thời hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường.

- 1217, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn, tướng của Khánh là Phạm Ân bị Nguyễn Nộn đánh bại, tuy nhiên sau đó, đối đầu với Khánh, Nộn lại bị thua.

- 1218, đầu mùa hạ, Trần Thừa (em Trần Tự Khánh) lãnh các đạo binh bao vây Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Nguyễn Nộn thua, lui về giữ Phù Ninh (17).

-1219, mùa đông, tháng chạp, Nguyễn Nộn chết vì bệnh.
Tuy nhiên ĐVSKTT cũng như VSKĐTGCM lại cho hậu thế nhiều chi tiết về ông này ở khoảng thời gian sau năm 1219.

Những đoạn viết về Nguyễn Nộn và việc nhà Trần lên ngôi theo ĐVSKTT (Nv: KĐVSTGCM viết giống như ĐVSKTT, chỉ khác về năm nhà vua Huệ Tông hạ chiếu bắt Nguyễn Nộn như đã trình bày ở trên)   :

- 1218, “mùa thu, tháng 8, xuống chiếu bằt cư sĩ ở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng”.

- 1219, “mùa xuân, tháng 2, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi đánh giặc chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai”.

- 1220, “tháng 3, Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh phong, không thể chế ngự được”.

- 1223, “Tháng 12, thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh”.

- 1224, “Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu  Hoàng”.

-1225, “Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. …. . Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước…. mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chín”.

-1226, “Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man…. Lúc ấy, nhân thế suy yếu của triều Lý, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở vùng núi Tản Viên, vùng núi Quảng Oai xâm phạm đánh lẫn nhau.  Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang , Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu  . Thủ Độ điều động các quân đi đánh dẹp.

Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề, nhưng Thượng không đến”.

- 1228, “Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh giết Đoàn Thượng. Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nộn rất lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm [5b] dò la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng riêng cho công chúa ở. Vì thế công chúa không thể báo được tin gì”.

- 1229, mùa xuân, tháng 3, “Sau khi kiêm tính quân của Thượng, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tới hỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu. Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối”.

Qua những trình bày và trích dẫn ở trên, người viết có nhận xét như sau: ĐVSL đưa ra những sử liệu rất có lớp lang và liên tục, cùng những chi tiết về “sứ quân” Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, đây là những sự kiện mà hậu thế chúng ta không thể chối bỏ, ngoại trừ nghi vấn về năm Nguyễn Nộn qua đời (chết vì bệnh, năm 1219) . ĐVSKTT và KĐVSTGCM cũng đưa ra những sử liệu thứ tự và chi tiết về Nguyễn Nộn từ lúc nhà Trần lên ngôi (1225). Đây là những sử liệu mà lớp hậu sinh đã ghi nhận qua hai bộ chính sử này, ngoại trừ nghi vấn về lúc Nguyễn Nộn “nhập cuộc” (1219). Năm 1229, Nguyễn Nộn qua đời (chết vì bệnh), thì người viết nhận xét, thì đây là chuyện không nên nghi ngờ, vì ĐVSKTT đã ghi lại  những biến cố cho đến ngày Nguyện Nộn chết. Người viết- kẻ hậu sinh- chỉ dám có thiển ý là gom chung những sự việc, để tạo nên một giả thuyết dựa theo những sử liệu hiện có:

- 1213, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, vì không nộp triều đình những quí vật như vàng ngọc nên bị nhà vua hạ chiếu truy nã (18), Nguyễn Nộn dựa thế lực ở Bắc Giang mang quân làm loạn. Trần Tự Khánh dùng Nộn làm tướng.

- 1213 tới 1218: những sự việc xảy ra có liên quan tới Nguyễn Nộn được ghi lại trong ĐVSL.

- 1219, Nguyễn Nộn không chết như ĐVSL đã viết, mà chỉ thua Trần Thừa một trận lớn, làng ấp bị ngập lụt vì Trần Thứa dùng thủy công để tấn công Nguyễn Nộn bằng cách phá đê (19). “Vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh-ND)”. Nguyễn Nộn coi như thua một canh bạc gần cháy túi, nên phải tìm cách trốn tránh để gầy dựng lại lực lượng mới.

- 1220, từ năm này trở về sau tới lúc Nguyễn Nộn chết, sự kiện được hiểu theo sử liệu trong ĐVSKTT cũng như KDVSTGCM.

Như đã trình bày ở trên thì Nguyễn Nộn xưng hùng ở vùng Bắc Giang 16 năm (từ năm 1213 tới năm 1229), một người rất có bản lãnh. Nói về cá nhân của Nguyễn Nộn, ĐVSL có một đoạn viết rất chi tiết và lý thú về ông này như sau: “Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn, Nguyễn Nộn là người có gương mắt đẹp lạ lùng, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Tuy ở trong cái cảnh ngục tù mà thần sắc vẫn tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, đối lại, ông mang theo cả cái dây xích sắt (vì đang bị trói-ND) mà nhảy, nhưng lại nhảy hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh thấy, lấy làm lạ, lại cho làm tướng và đem người con gái của bà dì mà gả cho. Rồi lại trao cho hai ấp là Trần Khê cà Cả Lũ (Nay thuộc tỉnh Thái Bình-ND)”. (ông này đã bị Trần Tự Khánh cầm tù 8 tháng -từ tháng giêng tới tháng 9 năm 1213).

Thật là hiếm có đoạn sử liệu nào mà sử gia (cũng là Nho gia) lại hết lời ca tụng một loạn tướng như thế. Vậy thì Nguyễn Nộn phải là một nhân vật kiệt xuất, ngoài hình dáng bề ngoài với “gương mặt đẹp lạ lùng”, võ nghệ tuyệt luân, Nguyễn Nộn “lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát”, Nguyễn Nộn phải là người được lòng dân vùng Bắc Giang; nên mới mới có thể hùng cứ một thời gian lâu dài như thế. Nguyễn Nộn lại thắng Đoàn Thượng và gồm thâu toàn bộ binh lực của ông này nên đã làm triều đình nhà Trần rúng động. Nhà Trần dù đã mang quân đánh Nguyễn Nộn, nhưng cũng không dẹp được, đến nỗi phải phong vương  và mang công chúa gả cho ông ta để lấy lòng. Tuy nhiên, số phận Nguyễn Nộn không lâu dài, ông này chết sớm vì bệnh. Thế là nhà Trần bớt được nỗi lo lắng lớn lao, dân chúng bớt lầm than vì chinh chiến, cảnh thái bình đã trở lại với đất nước.

Những cuộc binh biến giữa các “sứ quân”.

(còn tiếp)


1. Quốc Oai ngày nay là huyện Quốc Oai, thuộc tỉnh Hà Tây (phía tây bắc của tỉnh này, phía nam huyện Thạch Thất, phiá bắc huyện Chương Mỹ, phía tây thành phố Hà Nội). Tuy nhiên theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, trang 185 thì thời Lê Quang Thuận thứ  7 (Vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Quang Thuận), “Phủ Quốc Oai lãnh 5 huyện là Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Lộc, Thạch Thất và Ninh Sơn”. Chuối đời Lý, Quốc Oai là một châu.

2. Năm này phải là năm Tân Mùi chứ không phải là năm Tân Tỵ như trong ĐVSL : “Năm Tân Tỵ (năm 1211-ND) là năm Kiến Gia thứ nhất:”. Có lẽ tác giả (hoặc dịch giả) đã viết nhầm mà người viết đã không ghi chú trong phần trước (ĐVSKTT viết là : “Tân Mùi, [Kiến Gia] năm thứ  nhất [1211], (Tống Gia Định năm thứ 4)

3. Ghi chú  cuối trang 51, ĐVSKTT tập 2: “ Na Sầm: tức Na Ngạn, thuộc đất huyện Lục Ngàn, tỉnh Hà Bắc ngày nay”.
Huyện Lục Ngàn nằm phía bắc tỉnh Bắc Giang (2005).
4. Ghi chú của dịch giả: “Tây Dương là khu Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay”.
5. Thái Tổ đây là Trần Thừa, anh của Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung (nguyên phi của vua Lý Huệ Tông). Được gọi là Thái Tổ, dù ông này chưa từng làm vua vì ông ta là thân phụ của Trần Cảnh- Trần Thái Tông- vua đầu của nhà Trần.

6. Có lẽ cũng chẳng oan !

7.Kể ra cậu cháu cũng còn giữ được chút tình nghĩa!
8.Ghi chú trong ĐVSKTT, tập 1, cuối trang 334: “Đội Sơn: còn gọi là núi Long Đội tức núi Đọi, ở  huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà ngày nay”. Nay cũng là huyện Duy Tiên, phía bắc tỉnh Hà Nam.

9. Không biết rõ Trần Tự Khánh thọ bao nhiêu tuổi .. Theo ĐVSKTT: “Giáp Ngọ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 3 [1234], (Tống Đoan Bình năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 18, thượng hoàng (NV: Trần Thừa) băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi”.  Vậy Trần Thừa sinh năm 1184, Tự Khánh là em Trần Thừa, thì Tự Khánh phải sinh sau năm 1184. Tự Khánh chết lúc chưa tới 39 tuổi.
Tuy nhiên như đã trình bày trong phần mở đầu, trong mục –Gia phả họ Trần –theo như   http://vietnamgiapha.com/XemGiaPha/367/giapha.html  thì Trần Tự Khánh (1175-1223) là anh cả, Trần Thừa là em kế (1184-1134).

10. Hiển Tín Vương tên là Lý Bát, vì họ Lý đã bị đổi sang họ Nguyễn đời Trần, nên tác giả (cuối đời Trần) đã viết là họ Nguyễn thay vì họ Lý cho Hiển Tín Vương

11.  Huyện Đường Hào có lẽ ở giữa ba huyện Bình Giang, Cẩm Giàng và Gia Lộc thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay

12. Lúc này vua Huệ Tông đã về với Trần Tự Khánh (tháng 5, 1216). Gọi là hàng, nhưng Đoàn Thượng vẫn có binh quyền.

13.  Quang Thuận là  niên hiệu đầu của vua Lê Thánh Tông (từ  năm 1460 tới 1469), sau đó đổi niên hiệu là Hồng Đức (từ  năm 1470 tới năm 1497)

14. Phù Đổng nay thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội

15. Nguyễn Nộn cùng họ với hai ông này, không biết rằng Nậu, Nải, Nộn có liên hệ như  thế nào về họ hàng? Có một điều là họ Nguyễn lúc này không có nhiều người. Thời nhà Đinh, có một người họ Nguyễn ở Cổ Loa (huyện Đông Anh, tỉnh Hà Nội ngày nay) được sử sách ghi chép lại là Định Quốc công Nguyễn Bặc. Người viết tự hỏi là những nhân vật này là hậu duệ của ông Nguyễn Bặc ?

16. Mẹ của Trần Tự Khánh họ Tô, chị của Tô Trung Từ. ĐVSL lại nêu ra đây một chi tiết nữa là Tự Khánh có thêm một bà dì.

17. Phù Ninh (lời người dịch) nay  thuộc tỉnh Bắc Ninh

18. Thiển ý của ngưới viết: có lẽ Nguyễn Nộn  bị truy nã vì đã gặp được những quí vật; vốn là của triều đình; nhưng không nộp, vì có thể những quí vật này đã bị lấy đi từ trong cung, được dấu tại Bắc Ninh bởi loạn đảng Quách Bốc.

19. Phá đê! Đây là một hành động tàn nhẫn đối với dân chúng, vi phạm về qui ước chiến tranh ngày nay.