SỐ 31 - THÁNG 7 NĂM 2006

 

Thư Tòa Soạn

Thơ

Bước chân
24 Vũ Hoàng Thư
Tự thuật
24
Trần Việt Bắc
Thương nhớ một đời

23
Huỳnh Kim Khanh
Quỳnh nương
21
Phan Thái Yên
Gốc phượng già
18
Tôn Thất Phú Sĩ
In dấu một đời
18
Kim Thành
Hè ơi! Nhớ lắm
17Ngọc Trân

Truyện ngắn, Tâm bút

Lửa trời
13
Nguyên Nhi

Kình ngư
13
Hoàng Du Thụy
Quản chế
14
Phạm Hồng Ân

Nắng dã quỳ và con sóng xa
14Phan Thái Yên
Bức Phù Điêu
14
Cỏ Biển
Tôi mê đá banh
7Nguyễn Hồng Quang

Ba ơi

15
Võ Thị Đồng Minh
Những năm tháng về sau
15Tôn Thất Phú Sĩ
Trên đường thiên lý
8Song Thao
Hoa nắng, bướm và hè
8Vũ Hoàng Thư

Văn học, biên khảo

Nhà Trần khởi nghiệp (5)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành (5)
4Ngô Văn Xuân
Chè
4Xuân Phương
Nhạc sến - giai điệu quê hương
4Hoàng Mai Phi
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 18

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Vô tình cốc - Kỳ 25
1 Huỳnh Kim Khanh


 

Những năm tháng về sau

 

 

 
 

Nghĩ đến ngày mai ra đi tòng quân lòng tôi chùng lại ...Tôi sẽ phải xa Đà Nẳng, thành phố thân yêu ,nơi tôi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu của mẹ cha, bạn bè, thầy cô, trường lớp, với những mối tình vu vơ , những ngày đầu biết yêu , một thuở vấn vương theo các tà áo trắng bay bay để lại cho tôi bao ngẩn ngơ .  Tôi xé tờ giấy học trò từ quyển vở Toán, viết bài thơ tình diệu vợi để gởi theo gió theo mây :

Áo trắng , ngày xưa ! tôi ngẩn ngơ
Bên hiên trường vắng bóng học trò
Tan trường em vẫn còn lưu luyến
Em đợi chờ ai hay đợi tôi
Tên em tôi khẽ gọi cùng gió
Đưa lá vàng bay đến nẻo xa
Tóc mềm là những dây hoa dại
Quấn lấy hồn tôi rất thật thà
Áo trắng thướt tha trong nắng mới
Nắng buổi bình minh nắng ban đầu
Thơ tình em viết sao mỏng quá
Thả vèo trong gió biết về đâu
Thời con gái em thèm chua ngọt
Trái me xanh rớt trên môi mềm
Tình em cho tôi là thế đó
Tình ơ hờ vì tình chỉ là thơ

Thôi giã từ bãi biển Mỹ Khê, Non Nước, Sơn Trà, Thanh Bình, Cầu Vồng, sân vận động Chi Lăng ... giã từ phượng vỹ, ve sầu, me chua, khế ngọt .Tôi sẽ đi , xin trả lại cho ai một thời hoa mộng của tuổi dại khờ , MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẲNG. Tôi đi vào giấc mộng hải hồ và từ đó cuộc đời trôi theo sóng nước cho đến một ngày tai họa giáng xuống đất nước thân yêu...

Ngày 29 tháng 04 -1975, tôi công tác trên chiến hạm LSM, loại tàu chuyên chở , đổ bộ , từ GUAM trở về Việt Nam  Tàu chúng tôi được lệnh ủi bãi để đón người di tản . Sau khi đưa đoàn người di tản đến cửa Vũng Tàu, tôi phân vân không biết nên đi hay ở lại vì vợ con tôi còn kẹt ở Sài Gòn. Giữa cái đi và cái ở , tình cảm gia đình đã chiến thắng trong tôi . Thế là tôi xuống một chiếc tàu nhỏ của Mỹ và yêu cầu cho tôi vào bờ, giã từ vĩnh viễn cuộc đời hải nghiệp mà tôi trân quý, để rồi mang bao đắng cay vào tận nhà tù Cộng sản.

Nhớ ơi nhớ ! tuổi học trò Đà Nẳng
Thương những giờ trốn học đi lang thang
Chè ngã năm , năm đồng một ly cối
Đậu đỏ nước dừa ngọt lịm quê hương
Nhịn quà sáng chễm chệ vào kéo ghế
Diệp Hải Dung kem hai màu xanh đỏ
Gió hạ về rung rinh chùm hoa gạo
Ngẩn ngơ nhìn vạt áo trắng bay qua
Rạp LIDO chiếu Film Bonjour tristesse
Francoise Sagan thần tượng tuổi đương thì
Ta yêu em tình yêu vừa mới chớm
Đã vội ngậm ngùi Buồn ơi ! chào mi
Đường Bạch Đằng bờ sông Hàn tuyệt diệu
Quả me chua quyến rũ đôi má đào
Ghế đá công viên học trò con gái
Mái tóc bồng bềnh sóng nước lao xao
Đường Độc lập trang nghiêm nhà thờ lớn
Tượng Chúa buồn mưa nắng đến thăm luôn
Nhớ em anh ngước nhìn cây Thánh Giá
Sách vở nhạt nhòa gió lạnh từng cơn
Mỹ Thị những ngày cuối tuần cắm trại
Cùng nhau dựng lều che nắng ban mai
Gió đồi thông vi vu cánh diều giấy
Con gái đùa hơn cả lũ con trai
Rong chơi hết chỗ này đến chỗ nọ
Lên yên xe Đà Nẳng mình mộng mơ
Tôi chở tuổi học trò sau xe đạp
Hai bên xe phượng vĩ với ve sầu
Ừ phải đấy ngày xưa mình lẩn thẩn
Thầm yêu một lần ba bốn mỹ nhân
Từ Phan châu Trinh qua Phan thanh Giản
Về Sao Mai hò hẹn Cổ viện Chàm
Nhớ ơi nhớ ! tuổi học trò Đà Nẳng
Kỷ niệm này là kỷ niệm trăm năm
Nếu có kiếp sau thì ta vẫn
Làm cậu học trò Đà Nẳng xưa

ttps

Nhớ buổi sáng của ngày cuối tháng 05-75, tôi đi lang thang đầu đường Lê Văn Duyệt giữa Sài Gòn đổi chủ Thành phố biến dạng thật nhanh , người dân đem các vật dụng trong nhà ra bày bán đầy dẫy hai bên lề đường. Người ta gọi Saigon bây giờ là thành phố của nhân dân, của cách mạng và giai cấp công nhân , nông dân đứng lên làm chủ đất nước. Những anh đạp xích lô, những chị buôn thúng bán bưng, thừa cơ hội tự nhận mình là cách mạng nằm vùng , lên mặt, hù dọa mọi người. Tôi lầm lũi đi, xác thì còn đây nhưng hồn bay bổng nơi nào. Chợt một người từ căn nhà đi ra gọi :

- Sĩ. Anh Sĩ. Đi đâu đó?

Tôi quay lại, trong ngỡ ngàng tôi nhận ra thầy Nguyễn Đăng Ngọc, thầy Hiệu Trưởng cũ thời tôi còn học trường Phan châu Trinh. Hai thầy trò nắm chặt tay nhau vừa mừng vừa tủi! Thầy gọi tôi vào nhà. Ngồi nơi cái phòng khách đơn sơ, quyển từ điển Phÿp -Viết để trên bàn, hai thầy trò tâm sự, kể cho nhau nghe những mảnh đời đi qua và hiện tại. Xa Thầy mười lăm năm , bây giờ gặp thầy trong một hoàn cảnh bi đát của đất nước , tang thương của dân tộc , thầy bóp nhẹ vai tôi hỏi:

- Sao em không đi ?

Tôi buột miệng hỏi :

- Thưa thầy, sao thầy còn ở lại đây ?

Hai thầy trò nhìn nhau cùng một ý nghĩ, cùng một chua xót buồn đau .

Hôm ấy , 01-06-1975 ,tôi trình diện đi học tập cải tạo...
Sau khi chiếm miền Nam (30-04-1975 ), Cộng sản lừa gạt Quân, Cán, Chính của chế độ cũ còn kẹt lại , kêu gọi khăn gói đi học tập cải tạo theo diện 10 ngày hay một tháng rồi về . Cả miền Nam mắc bẫy của chúng. Cùng với bao nhiêu người đồng cảnh ngộ ,tôi đi trình diện học tập trong diện 1 tháng và được đưa về Suối Máu Biên Hòa . Thế rồi một tháng qua , một năm qua ...trong lao động nhọc nhằn, trong những đêm ngày khai báo liên miên, ngày về không phải là một tháng mà là vô định...

Mùa Thu năm 76, tôi bị đưa ra Bắc Lần nầy tôi được trở về với biển, với người tình muôn thuở của tôi. Chúng tôi được trói tay từng hai người một và nhốt trong một hầm tàu. Tàu ra khơi ... Bắc tiến .. .Tôi. bị đày ải từ Hà Nam Ninh đến Cao Bằng, Lạng Sơn, trong rừng thiên nước độc với những ngày cháy nắng , những đêm lạnh xé da trong manh áo tù không đủ ấm. Và thời gian trong tù cứ vậy mà trôi qua... Ai cũng nôn nóng lo âu chờ mong ngày được thả, qua bao đau khổ vì đói vì lạnh, vì phải lao động trong các hầm mỏ than dọc biên giới Việt Trung . Sợ nhất là mỗi đêm khuya phải thức dậy làm tờ tự khai, tự thú điên cả cái đầu. Đời sống vỡ mộng, người tù mỏi mòn lo âu cho thân phận mình, cho gia đình, cho cha mẹ, anh chị em, vợ con và những người thân. Càng về sau người tù càng hiểu ra đừng có mong ngày về. Bọn nó nói “phải luôn luôn yên tâm cải tạo, học tập chính trị tốt, lao động chân tay giỏi, bao giờ nhân dân thấy các anh đã trở thành con người mới của chế độ Xã hội Chủ nghĩa thì các anh được nhân dân khoan hồng cho về " . Ngày về không biết được, nghĩa là ở tù không có án tù. Phần tôi, sau 6 năm di chuyển từ trại nầy qua trại khác, ngày về mịt mờ xa thẳm, mỗi ngày phải đốn tre, chặt gỗ xây thêm nhà ở, làm chuồng nuôi vài ba con heo nhỏ xíu, gieo hột rau muống , phá rừng làm rẫy để trồng khoai mì, cải thiện đời sống cho có một chút ít dinh dưỡng trong những tấm thân gầy còm. Các hầm cầu được giữ phân lại để làm phân xanh tưới rau . Tù không có kêu án, tôi cảm thấy có cái gì khác lạ, tôi hoàn toàn không suy đoán được tương lai. Một lần trong khi đào giếng để lấy nước, tôi chỉ bên kia hàng rào kẽm gai đầy mìn và nói với người bạn tù: “Cứ xem ngọn đồi kia là nơi chôn chúng ta khi kiệt sức lìa đời, bây giờ phải lê lết cho qua ngày tháng, phải tìm những niềm vui nho nhỏ mà ta có thể có được để vui sống, dù sống không niềm tin, không hy vọng , tội gì mà buồn vì buồn cũng vô ích, không giải quyết được gì !” Nghe tôi nói thế, người bạn tù bật khóc, tôi an ủi và trấn an tinh thần người bạn tù của tôi và từ đó hai đứa trở thành bạn thân . Về sau nhiều người rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi vẫn tỉnh bơ, vui vẻ cười đùa như không phải ở tù , xem đây như nơi tạm trú, nơi dừng bước giang hồ, nơi tạm nghỉ sau một khoảng đời .Mặc cho ngày tháng đi qua, chúng tôi gầy gò vì thiếu ăn, vì lao động cực khổ, sức khỏe càng ngày càng vơi , chúng tôi vẫn xem những bữa ăn kham khổ là những bữa yến tiệc cao lương mỹ vị, những ngày làm việc nhọc nhằn là những buổi tập thể dục cho thân hình được khỏe mạnh. Trong lúc lao động trong rừng sâu, bắt được con nhái bé nhỏ, dấu đem về trại, tối đến nướng lên thơm ngậy, xé làm hai, tổ chức một bữa tiệc thưởng trăng . Hai đứa bí mật dự dạ hội trong đêm bên một gốc cây già . Gió mát dịu, ánh trăng huyền ảo mông lung len lỏi qua hàng thông rừng như an ủi vỗ về . Nghe thoang thoảng đâu đây tiếng cười của con thơ, ánh mắt của vợ nhà... Sau đó tôi có thêm vài bạn khác xin gia nhập hội bạn tù . Chúng tôi tổ chức được những buổi văn nghệ bỏ túi cấp tốc. Bốn năm tù nhân hẹn nhau tại đám cỏ, sau toilettes... mở đại nhạc hội, hát nhạc vàng cho nhau nghe. Tôi nhớ đến bài hát mà thầy Hoàng bích Sơn đã dạy cho chúng tôi trong những giờ học nhạc dưới mái trường Phan châu Trinh: “Đường về quê tôi, con đường xa xôi, qua mấy con đò, quanh mấy ngọn đồi cao”.. , tôi hát cho các đệ tử của tôi nghe, lòng dạt dào mơ về quê xưa, nơi có con đò, có hàng dừa xanh, có tình tôi vừa mới lớn . Rồi cùng kể chuyện tiếu lâm về  " bác Hồ " , hát nho nhỏ : ? Hôm qua em mơ gặp bác Hồ, râu bác dài, bác đạp xích lô “, kể chuyện Quỳnh Giao, chuyện Thần Điêu Dại Hiệp .Nhiều lúc cao hứng ngâm thơ và ca vọng cổ . Cứ như thế mọi nhọc nhằn lo âu biến mất, dù thời gian văn nghệ mỗi đêm chỉ được khoảng 25 phút, thời gian ấn định để được phép đi tiêu. Chúng tôi đã cố tìm được HẠNH PHÚC ở trong tù - Hạnh phúc đó thật đơn giản, thật dễ thương - để quên đi cái đau khổ luôn luôn chực chờ . Có những khi đi khiêng đất, hai đứa hai đầu, gánh nặng quầng cả hai vai nhưng vẫn đánh cờ tướng không bàn : pháo 2 bình 5, mã 7 tấn 6, xa 1 tấn 1 v . v.... Chơi mãi thành quen, tất cả đều trở thành cao thủ . Vào một đêm đang bị nhồi sọ trong những bài học chính trị “ lao động là vinh quang, đế quốc Mỹ là kẻ thù số một, đảng Cộng sản là cái nôi của nhân loại, là đỉnh cao trí tuệ của loài người “, chúng tôi ngồi giả bộ chăm chú nghe nhưng thật ra chúng tôi đang đánh cờ. Chợt một anh bạn tù buột miệng la :” Chiếu “, anh Quản Giáo đang hùng hồn giảng bài súng AK bắn nhào B52 của đế quốc Mỹ, khựng lại hỏi “Cái gì thế ? " Chúng tôi đáp: “Quản Giáo giảng bài hay quá! “ -Tại sao gọi là CHIẾU ? Chúng tôi giải thích:”' Chiếu là tiếng khen tặng của người miền Nam , cũng như các từ hồ hởi, phấn khởi của người miền Bắc . Anh Quản Giáo hồ hởi, phấn khởi cười xòa trong cái hãnh diện là mình giảng hay !!! Chúng tôi còn tổ chức những cuộc đấu kiến, đấu dế, bắt những con đấu thua bỏ vào hộp diêm cho chúng cải tạo .Chúng tôi tìm đủ mọi cách ,cố tạo ra những trò giải trí nho nhỏ để quên ngày tháng tù đày ..Thỉnh thoảng một vài người trốn tù trong đêm, gặp phải mìn nổ tan xác hay bị bắt lại để được nhốt riêng nơi hầm tối hoặc bị xử bắn về tội phản cách mạng. Và dĩ nhiên không thiếu những người tù chết vì bệnh không có thuốc chữa, xác được bó tròn trong chiếc chiếu khiêng ra chôn tận bìa rừng. Những thảm cảnh ghê rợn đó không làm cho chúng tôi sờn lòng . Đời người ai cũng một lần chết, cái chết đến với chúng tôi một cách dửng dưng. Chúng tôi cố gắng sống trong cái hạnh phúc nhỏ nhoi đã tìm được. Và chúng tôi cám ơn ơn trên đã cho chúng tôi nhiều nghị lực sống qua những năm tháng tù đày...
Ra khỏi tù giữa năm 81, tôi sống trong một nhà tù rộng rãi hơn .Tôi có cùng chung số phận cơ cực, bị đàn áp của mọi người vây quanh trong cái xã hội đổi mới quái đản  Nhưng cay nghiệt hơn , dưới mắt bọn Cộng sản, tôi là thành phần thấp kém , chưa có quyền công dân, cuộc sống vẫn bị quản chế, mỗi tuần phải trình diện công an phường một lần để khai báo hoạt động trong tuần. Tôi đã sống những ngày đi công tác thủy lợi, lao động ngoài công trường, làm việc như trâu bò để mỗi ngày khi chiều xuống được lãnh hai kg BO BO đem về nhờ ơn Xã Hội Chủ Nghĩa ưu việt .Một lần , trong lúc được nghỉ ngơi, cởi trần mặc quần xà lỏn nằm phơi nắng, phơi gió hây hây, trăm sự gác qua một bên, chỉ một mình ta với đất trời bao la , tôi chuyện trò với một anh bộ đội giải ngũ về làm dân với bao năm gian khổ hy sinh diệt Mỹ Ngụy cứu nước ,có huy chương Dũng sĩ diệt Mỹ của bác Hồ. Anh bộ đội được đưa về làm cán bộ trong công trường thủy lợi nầy với ba tháng lương chưa mua nỗi chiếc xe đạp cho con, trong lúc các đồng chí của anh tiếp thu các dinh thự của Mỹ Ngụy , sống một đời sống xa hoa phè phỡn. Tôi hỏi anh lý do tại sao anh ở đây ? Anh trả loi:”+` Tớ vì lý do cha mẹ là điền chủ, tuy bị đấu tố tịch thu tất cả tài sản nhưng vẫn còn cái gốc là điền chủ , tuy tớ được vào Đảng nhưng còn phải phấn đấu nhiều hon” . Từ đó anh hay theo tôi để hỏi về cuộc sống của dân Miền Nam . Tôi hân hoan lên lớp với người bộ đội bị nhồi sọ này , và cảm thấy như mình đã làm được một việc thiện .

Một buổi chiều, tôi đạp xe đạp đi dạo trên đường Hồng thập Tự, bất ngờ tôi gặp thầy Tòng. Còn nỗi vui mừng, niềm hạnh phúc nào hơn khi gặp lại thầy cũ . Thầy vẫn nụ cười muôn thuở, nước da ngâm đen như thuở nào, mái tóc bồng bềnh, lãng tử. Hai thầy trò đạp xe đạp song song, chuyện ngày xưa, chuyện ngày nay, chuyện ngày mai ,tâm sự suốt một đoạn đường dài . Tội mời thầy vào một tiệm ăn nhỏ, hai tô phở nóng như tình thầy trò bỗng dưng gặp lại, hai ly cà phê sửa đá mát rượi như mái trường Phan châu Trinh thân yêu ngày xưa. Tôi hình dung lại những ngày tháng trước, xa quá rồi... Kỷ niệm lại về quanh tôi, quanh thầy, hình ảnh người thầy tươi vui sống động, người thầy mặc quần tây dài ống loa đầu tiên trong cái mode tân thời của Đà Nẳng, người thầy ham mê đá bóng mà một thời Đực 1, , Đực 2, Tam Lang, Rạng là thần tượng sân cỏ của thầy . Tôi nhớ có một lần tôi và bạn bè vui chơi ở Thanh Bồ, không có tiền ăn cà rem, chợt gặp thầy đi ngang qua, tôi lập mưu xì lốp xe đạp, rồi chạy lại thầy xin tiền vá xe. thầy vui vẻ móc bóp cho mấy đồng. Lần sau thằng bạn cùng lớp dùng mưu kế đó để kiếm tiền ăn quà, thầy biết được la rầy cho một trận. Thằng bạn mặt đỏ như say rượu, bẽn lẽn cúi đầu. Tuy vậy, thầy cũng thương tình cho mấy đồng với lời rầy la” lần sau không được lập mưu như vậy nữa, xấu lắm, em biết không? “ Tình thầy trò lấy gì đong cho hết, biết lấy gì gỡ cho ra. Thầy Tòng! Em ngồi đây viết về thầy thấy lòng vui theo ánh nắng chan hòa, vài nụ hoa vừa chớm nở, tiếng chim ríu rít trong mảnh vườn nhà em, hạnh phúc lan tràn trong ánh mắt, trên môi miệng, trong trái tim không chịu già theo với tuổi đời phôi pha những ngày cuối đông lạnh lẽo tiếp nối những ngày đầu xuân ấm áp của đất trời Phÿp . Em nhớ về thấy với hạnh phúc đó.

Ngày mai lại đi, tôi đã nhận lời lái một chiếc ghe chở người vượt biên . Buổi chiều đi trên con đường Trương minh Giảng để nhìn lần cuối khu phố đã một thời thân quen với tôi, ngang qua khu Đại Học VẠN HẠNH, tôi chợt nhìn một dáng ai quen quen trong hành lang Đại Học . Hình như người đó cũng nhìn ra tôi, kẻ chạy vào, người chạy ra, tay bắt mặt mừng sau một phút ngập ngừng, bỡ ngỡ... Sĩ ,Thầy Phạm văn Ấm. Hai tiếng gọi, hai nỗi lòng như nhập một. Thầy bảo: “Chúng mình vào quán cà phê bên cạnh nói chuyện. Tôi bao, tôi bao anh “.

- Anh uống gì nào?

Uống gì, tôi thầm nghĩ. Thưa thầy, em đã uống ánh mắt trìu mến của thầy, tấm lòng hiền hậu của thầy.
Tôi nghẹn ngào chẳng biết nói gì hơn!

-Cà phê, nghe Sĩ

Thầy vẫn như từ thuở nào, dáng người nho nhỏ, nghiêm nghị. Cái nghiêm nghị giống như thầy Ngọc, nghiêm nghị của một nhà mô phạm . Tiếng thầy vẫn sang sảng, rõ ràng như những lúc thầy dạy Anh Văn. Chuyện ngày xưa, chuyện ngày nay, chuyện hiện tại, chuyện tương lai, hai thầy trò, hai mái đầu chụm lại, nói gì đây, bao nhiêu lời để hỏi, bao nhiêu câu để trả lời, hai thầy trò tưởng mình đang sống trong mơ.
“ Từ ngày gặp anh nơi Viện Đại Học Huế rồi anh đi đâu mất, sao vậy anh? Anh đang học được mà! Tôi đã hỏi Bác Sĩ Quyến, anh Quyến nói anh đã bỏ học để vào Hải Quân, anh không muốn làm Bác sĩ à !” Tôi bật cười, thấy thầy đang vui, tôi tếu:
Em đã là Bác sĩ rồi, học làm gì!
Thầy ngạc nhiên, tôi giải thích:
Em có thằng em trai, nó lấy vợ, đẻ con, con nó phải gọi em bằng bác, em tên Sĩ, vậy không phải là Bác Sĩ sao?

Thầy cười xòa: “Anh lúc nào cũng vậy, chỉ biết chọc người khác cười “Thầy kể tôi nghe: “Thầy vẫn dạy Anh Văn Đại học Sư phạm Huế, sau nầy tôi vào Sài Gòn dạy Anh Văn tại Đại học Vạn Hạnh đến bây giờ “.Thầy nhắc lại: “Ngày xưa anh nghịch nhất trường, anh biết không? Anh đả phá tôi thế nào “.Ngày xưa, cái ngày xa lắc đó, lớp tôi có chị Thúy Oanh đẹp, giỏi Anh văn, được thầy Ấm cưng. Anh văn tôi chẳng thua gì chị Thúy Oanh, thế mà mỗi lần làm bài tập hay vấn đáp, lúc nào tôi cũng thua chị Thúy Oanh nữa điểm, nhất là những bài thi lục cá nguyệt tôi không thể nào vượt qua được chị Thúy Oanh . Lúc nào tôi cũng bị thua trong gang tấc. Tôi giận quá, một hôm trong buổi tan trường về, tôi khóa hai xe đạp của thầy Ấm và chị Thúy Oanh lại với nhau.. Lúc ra về, một nam một nữ, hai xe dính chặt, không cách nào mở ra được. Thầy nhăn mặt, chị Thúy Oanh khóc, cuối cùng phải nhờ bác Cai trường cưa cái khóa. Không biết thằng bạn nào thày lay mét với thầy thủ phạm là tôi .Thầy Ngọc gọi tôi lên văn phòng ngày hôm sau, thế rồi là phải kỷ luật ...Thầy ơi, sau này em đã hối hận chuyện này , lòng thầy rất bao dung , thầy vẫn thương em cho đến ngày hôm nay gặp lai, thầy trò thân ái kể cho nghe lại chuyện ngày xưa thương mến đó. Thầy vẫn ở nội trú trong Viện Đại Học Vạn Hạnh, thầy không nói chuyện gia đình của thầy và tôi cũng e ngại không dám hỏi, thầy hỏi địa chỉ nhà tôi để đến thăm, tôi nói nhỏ:

“Em ở gần đây nhưng ngày mai em vượt biên " . Thầy cầm chặt tay tôi chúc thượng lộ bình an . Thầy nói vài ngày nữa, thầy sẽ đi ngang nhà tôi để dò la tin tức. Xin từ giã người thầy kính yêu, biết đâu đây là gần gặp gỡ cuối cùng. Tôi thấy mắt mình như có hạt bụi bám vào và 2 mắt thầy buồn buồn nhìn vào cõi xa xăm. Hạnh Phúc đâu đây như ôm chặt lấy tình Thầy trò .#

Tôi ra đi mùa Thu năm 81, bỏ lại đàng sau Sài Gòn ấp ủ hình ảnh của Việt Nam nước tôi Đến điểm hẹn tại Bà Rịa, tôi và gia đình được Công an chở bằng chiếc xe Honda dame đến bãi , để từ ghe nhỏ ra ghe lớn hơn. Chủ ghe nói với tôi, ghe dài 12 mét chở tối đa 65 người . Khi lên ghe lớn, đúng ghe dài 12 mét , ngang 4 mét, nhưng số người tôi thầm đếm hơn 100 . Đứng trên phòng lái nhìn xuống thấy toàn là đầu người với chiếc ghe mong manh trong đêm tối . Người Công an lái chiếc ghe đi, hai bên có hai ghe nhỏ hộ tống. Ra đến cửa Vũng Tàu, trời vẫn còn tối, anh ta giao tay lái cho tôi và một gói nhỏ đựng dụng cụ hải hành.

“Bắt đầu từ bây giờ anh lái, chúng tôi hết nhiệm vu”. Anh ta nói xong nhảy xuống ghe nhỏ và quay trở về.
Tài công phụ đâu? Tôi lên tiếng hỏi:

Chủ ghe trả lời:

“Vào phút chót nó không đi”. Thế là mình tôi trách nhiệm suốt hải trình, chủ ghe lo phần máy. Tôi mở gói đựng dụng cụ hải hành ra: một đèn pin, một ống dòm, một la bàn và một hải đồ. Tôi yên chí nhưng nhìn kỹ lại không phải là hải đồ mà là một bản đồ Sài Gòn Chợ Lớn. Tôi hỏi chủ ghe và được trả lời: “ Bọn nó đưa nhầm bản đồ rồi " .-Không sao!

Không khí trong lành của biển, ngọn gió ban mai thổi mát lòng, tôi cảm thấy vui . Trong đêm tối , theo chòm sao Bắc Đẩu lung linh, tiếng sóng rào rạt rủ tôi về với trời đất bao la, với bờ bến mộng ngày xưa. Tôi đưa chiếc ghe đi xuôi theo dòng nước, thủy triều bắt đầu rút xuống, hạnh phúc trong tôi dâng lên. Rạng đông, mặt trời to tròn bắt đầu mỉm cười với người thủy thủ trở về với biển khơi , tôi qua được mạng lưới tuần duyên của Công an biên phòng. Ghe vào hải phận quốc tế, thản nhiên trên đường đào thoát, không lo âu, để trí óc mình sáng suốt đi đúng lộ trình . Tôi tự nhủ, mình có cái gì phải lo, bị bắt thì tù lại, ở tù cũng có ngày ra tù, ra tù lại vượt biên, chỉ vậy thôi. Như kẻ ham chơi, thuyền vượt sóng ra khơi như đi du lịch, Tự do ơi! Tự do!

Tôi thầm hát khẽ : Ra Khơi biết mặt trùng Dương , biết trời mênh mông , biết ta hải hồ ...
Trước mặt tôi chân trời rộng, tôi ra đi tìm đất sống, dù chết cũng vui, còn hơn những người tù chết trong tay Cộng sản. Tôi không biết cảm ơn ai, cho tôi cảm ơn tất cả, kể cả những người Cộng sản đã đày đọa tôi suốt gần 7 năm dài, tôi đã thật sự đi tìm TỰ DO, điều mà tôi quyết tâm từ ngày vừa mới ra tù.

Sau bốn ngày lênh đênh, trời yên biển lặng, hải trình tôi đi không lệch một độ. Cái la bàn không xài được, lúc nầy còn cái vốn liếng hàng hải thiên văn đem ra dùng. Tôi đưa ghe vào giữa hải trình của các thương thuyền xuôi ngược, mong là không gặp tàu Liên Sô hay Trung Cong .Sau bốn ngày cầm tay lái , tôi bắt đầu thấm mệt . Chiều nay gió đổi hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc, những đám mây bạc cuối chân trời đã bắt đầu đổi màu xám, mọi người đã nằm im không còn nghe tiếng đọc kinh cầu nguyện. Con tàu lặng thinh , chỉ còn gió và sóng biển lao xao. Tôi thầm nghĩ, đêm nay có bảo và con thuyền sẽ đi về đâu? Trời đã bắt đầu tối, một chút ánh trăng còn sót lại của những ngày gần cuối tháng đủ soi đường cho con tàu tôi đi . Ghe cứ lầm lũi theo chiều gió, gió càng lúc càng mạnh, sóng đã phủ mũi ghe . Tôi ghì tay lái và bắt đầu cảm thấy chơi vơi . Sức người, sức ghe như thế nầy làm sao chống chỏi với trời biển.... Chợt từ xa, xa tít trong bóng đêm có chút ánh sáng, niềm hy vọng len lỏi trong tôi, ánh đèn đài chỉ huy đã hiện rõ. Tôi chạy hết tốc lực về phía con tàu, dùng đèn pin để xin cấp cứu . Ánh đèn yếu quá nên không nhận được. Một khoảng thời gian trôi qua, tôi nhận được tín hiệu con tàu . Một chiếc tàu buôn của Pháp sử dụng truyền tin bằng ánh đèn, cho tôi biết đã nhìn thấy rõ chúng tôi hỏi cần gì, có hiểu được tín hiệu qua ánh đèn hay không . Còn nỗi mừng nào hơn. Tôi trả lời bằng ánh đèn pin yếu ớt ” Tôi hiểu, tôi hiểu, tôi xin cấp cứu vì ghe nước vào nhiều đang lâm nguy, chúng tôi là những người tị nạn khởi hành từ Việt Nam” . Chiếc thương thuyền Cargo của Pháp đã từ từ hiện rõ trước tôi, bảo chúng tôi đợi để xin lệnh trên. Cuối cùng tôi được phép cặp vào hông tàu . Những ánh đèn pha sáng rực chỗ ghe tôi và nhiệm sở cấp cứu được thực hiện . Mọi người lên tàu được bình yên . Chiếc ghe vượt biên bị đánh chìm . Tôi là người lên tàu lớn cuối cùng với cái la bàn kỷ niệm. Những tiếng hoan hô vang dậy, mọi người ôm lay tôi, công kênh tôi lên , tôi sung sướng vô cùng, niềm hạnh phúc vô biên . Tôi đã đưa 108 thuyền nhân đến bến bờ tự do. Đêm hôm đó, bảo cấp 5, qua cánh cửa kính của căn phòng ấm cúng bỗng tôi rùng mình, hơn 10 năm Hải Quân , lang thang khắp biển Đông nầy, lần đầu tiên tôi biết sợ người tình Biển yêu dấu của tôi nổi giận. Niềm tin và hy vọng đã cho tôi một ý chí tranh đấu không mỏi mệt cho một tương lai .

Đến trại tỵ nạn Hồng Kông, tàu Pháp vớt nên không vào trại Cấm, chúng tôi được cư ngụ tại một khách sạn ở Kao Luong . Mỗi ngày được đi dạo phố vài giờ, chờ phỏng vấn để định cư một nước thứ ba. Tôi tiếp tục sống với Hạnh Phúc của tôi, mỗi chiều tôi lên đồi nằm ngủ, mơ màng theo tiếng gió vi vu .Trời nóng thì xuống biển tắm, bắt những con dã tràng xe cát mà nhớ biển Đông, nhớ Huế, nhớ Đà Nẳng, nhớ Nha Trang cùng các bạn bè thân yêu từ thuở nào. Chiều về ăn cơn thật no, đầy đủ chất bổ dưỡng , đêm đêm đốt lửa nhắc chuyện Sài- Gòn, tâm hồn vô cùng thảnh thơi, . Thời gian ở đây như ngưng lại trong cái huyền ảo của cuộc đời, cuộc sống trở về với thiên nhiên vô tư như trẻ thơ. Tôi cảm thấy tôi là người sung sướng nhất trên cõi đời nầy, tôi nâng niu hạnh phúc trong vòng tay, Hạnh phúc … Hạnh phúc.

Đến Pháp giữa thủ đô Paris  đồ sộ, tôi đi lang thang tìm việcQua đây vào mùa Đông giá lạnh, tuyết giăng đầy, tuyết rơi trên tóc, rơi trên vai. Đi hoài đi hủy tìm chưa được việc, tôi vẫn thấy mình là kẻ may mắn, sung sướng vì đang sống trong thế giới TỰ DO mà nhiều người thèm muốn . Tôi nghĩ dến bạn bè bà con đang khắc khoải trong gông cùm Cộng Sản, nghĩ đến nhiều người đã chết, đã bị cướp bóc hãm hiếp giữa biển Đông. Tôi tự trấn an từ từ rồi sẽ có việc, mình cứ tà tà hưởng tiền trợ cấp. Các con đã được vào trường nhập học với bạn bè là tốt rồi. Cho đến một hôm tôi tình cờ đi ngang qua một Võ đường Thái Cực Đạo. Đứng nhìn các em trong bộ võ phục cổ truyền đang luyện tập, tôi chợt nghĩ tại sao mình không thử thời vận . Tội tìm đến vị Giám Đốc xin làm Huấn luyện Viên võ thuật. sau khi nộp hồ sơ, bằng cấp và trắc nghiệm, tôi được thu nhận. Vậy là tôi đã có việc làm. Tuy là nghề tay trái nhưng tôi thấy bằng lòng và vui vẻ, hàng ngày chơi đùa và luyện tập với các môn sinh,đủ màu da: đen, trắng, vàng... Thế là lòng tràn niềm vui phơi phới, cuộc sống nơi xứ lạ quê người bắt đầu thích hợp với chúng tôi. Các con tôi đã vững vàng theo kịp được chương trình học ở một xứ sở văn minh. Tôi nhìn các con, lòng vui mừng đã đạt được niềm mơ ước từ lâu.
Như thế đó, đời tôi hơn 10 năm với  biển thuở ban đầu, trong chiến tranh đau khổ , tuy phải chịu một vài thiệt thòi nào đó trong đời sống gia đình nhưng tôi cảm thấy mình tràn đầy hạnh phúc, được du lịch khắp đó đây, thả hồn theo sóng nước... Những đêm trăng sáng đầy trời , tôi hay ngước nhìn tìm một vì sao , vì sao BALANCE hộ mạng của tôi trong giải Thiên Hà và chợt nhớ về người Mẹ thương yêu đã một đời lam lũ chắt chiu nuôi con cho đến ngày khôn lớn :

MẸ ƠI BIỂN GỌI

Con ốc nhỏ thu mình chôn dưới cát
Mà trong lòng chứa cả một đại dương
Nghe vi vu từ ngàn xưa vất vưởng
Rồi thì thầm từ hồn ốc mênh mông
Mẹ sinh con bên bờ cong chữ S
Bài hát ru theo chiếc võng à ơi !
Lời mẹ êm thiết tha tình biển gọi
Võng tròng trành theo nhịp tàu đong đưa
Buổi chia tay tuổi học trò ra biển
Ngày xuống tàu hồn bỗng thấy lao xao
Ôm mẹ yêu, vòng tay đầy mộng ảo
Tiễn con đi quanh mẹ gió rì rào
Con dã tràng xe từng viên cát nhỏ
Giương cái càng che khuất nữa vầng trăng
Ánh trăng vàng rơi tràn trên biển vắng
Ngọt như dòng sữa mẹ đã nuôi con
Chiều xuống thấp mây rơi trên đỉnh núi
Cánh chim bay lãng đãng bóng hoàng hôn
Mẹ ơi mẹ giữa trùng khơi dậy sóng
Lòng mẹ bao la hơn biển Thái Bình dạt dào (*)

ttps
(*) Lòng Mẹ - Y Vân

Tôi không ngờ, cuộc đời có những cái bất ngờ mà mình không thể ngờ được, tôi đã gặp lại Cô LIỂNG dạy Pháp Văn ngày xưa. Các bạn ơi , ai đã học với Cô LIỂNG ắt vẫn còn nhớ Cô không những là một cô giáo hiền, linh hoạt vui tính mà còn là một người mẹ của chúng mình. Cô không bao giờ la rầy học trò, chỉ nhỏ nhẹ khuyên răn khi tụi mình phạm lỗi hay lười biếng học hành . Với Cô tụi mình không phải chỉ là học trò của cô, mà còn như những đứa con trong lòng cô. Ngày tôi gặp lại Cô, Cô đã già lắm rồi, hai mẹ con nhận ra nhau trong mùi hương thơm dịu dưới chân tượng Phật. Cô lấy tay xoa đầu tôi, xoa đầu đứa học trò ngỗ nghịch ngày xưa. Cô chỉ nói được:” Cô không ngờ ! “ Rồi Cô khóc. Có lẽ qua hình ảnh của tôi, Cô đã sống lại thời làm cô giáo ngày xưa , cũng giống như tôi bây giờ, đang ngồi viết những dòng chữ nầy gởi đến Thầy Cô và các Bạn, tôi đang sống lại một thuở vàng son lưu luyến đẹp nhất trong đời: Tuổi Học Trò, Thời Dạy Học. Tôi Chia tay Cô Liểng trong lời hẹn gặp lại . Tôi cho Cô biết ngày mai tôi phải  đi xa  . Ngày tôi  đi, mưa bay bay như bụi, vương mái tóc tôi, mái tóc ngày hôm qua Cô Liểng, bàn tay mẹ dịu dàng xoa trên đầu con, lòng tôi man mát buồn và mong cho mau kết thúc chuyến di xa  để về tâm sự cùng Cô. Nhưng hai tháng sau tôi về, Cô đã bỏ tôi ra đi vĩnh viễn. Còn nỗi buồn nào hơn ! Tôi gặp lại cô có một lần là lần cuối rồi xa ngàn đời. Cô ơi! Người Thầy dạy Pháp Văn đầu đời của con, mỗi mùa Phật Đản đến, con sẽ về chùa Khánh Anh Pháp để thắp hương tưởng niệm Cô. Di ảnh và tro cốt của Cô Liểng được thờ tại đây. Các bạn thân mến, ai có dịp ghé qua Paris ,xin tìm về thăm Cô, thắp nén hương lòng để dâng lên Người Thầy thương mến.

Mùa Xuân 2003 tôi được về hưu - 60 tuổi - 60 năm cuộc đời . Chợt nhớ bài hát 60 năm cuộc đời của nhạc sĩ Y Vân :

Em ơi có bao nhiêu
60 năm cuộc đời
20 năm đầu - Sung sướng không bao lâu
20 năm sau , tình yêu cao vòi vợi
20 năm nữa có là bao ...

Người nhạc sĩ đã mất vừa đúng 60 tuổi Bài hát đã an bài một định mênh . Riêng tôi , 60 năm đã qua , cuộc đời lên xuống sướng khổ đã qua , giờ đây còn lại là những tháng ngày thong dong , không bận tâm suy nghĩ nhiều . Tôi sống trong hạnh phúc cuối đời . Buổi sáng tôi thức dậy sớm đến hồ tắm bơi lội vui đùa trong dòng nước nóng . Mỗi ngày tôi dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ để vui lòng bà xã . Rồi tôi lang thang tìm vần thơ để viết thơ tình hồi tưởng lại những tháng ngày hoa mộng tuổi 20 :

Cuối đời giấc ngủ không còn mộng
Trời vẫn xanh xanh mãi trong hồn
Bỏ lại đằng sau tình diệu vợi
Hạt bụi mờ trong cõi hư không

ttps

Tháng 8-2004
Một buổi sáng bầu trời trong xanh như mắt mèo , đang cắt cỏ ngoài vườn , tôi nghe chuông điện thoại reo ,rồi một giọng nói nhẹ nhàng bên kia dầu dây:

-Phú Sĩ có biết ai đây không ?
-Thưa không biết , dạ xin cho biết quý danh .
-Cô Liệu đây , Cô Bên Mỹ vừa mới qua thăm Paris .

Tôi mừng quá , xin địa chỉ , thay áo quần , dọt như tên bắn đến thăm Cô .
Cô Đặng thị Liệu , người Thầy dạy Anh Văn của tôi thuở là học trò đệ lục , đệ ngũ Phan Châu Trinh .
Cô vẫn như ngày nào . Gần nữa thê kỹ mới gặp lại Cô , vui buồn lẫn lộn . Thầy trò cùng nhau kể chuyện xa xưa . Được biết Cô lưu lại Paris một tuần , tôi đến thăm Cô mỗi ngày . Thầy trò lang thang thăm viếng các thắng cảnh Paris . Gia đình Tôi có mời Cô Liệu đến nhà chơi một hôm , và theo lời yêu cầu của cô tôi có mời người bạn dồng môn Nguyễn hữu Viện cùng dến . Nhờ có Cô Liệu tôi mới biết được Nguyễn hữu Viện cũng cư ngụ gần Phÿp mấy chục năm qua . Viện đến chơi đem theo em bé trai con của Viện . Viện dáng người ốm và cao , tươi cười hoạt bác . Thầy trò vui ơi là vui trong một ngày hè đầy nắng , gió mát và mây xanh . Cuộc vui rồi cũng tàn và từ dấy dến nay tôi không hề gặp lại Viện .Tôi vẫn mong một ngày đẹp trời nào đó gặp lại người bạn dồng môn mà tôi chỉ được diện kiến dung nhan một lần trong đời .Một tuần lễ rồi cũng qua nhanh, Cô Liệu giã từ Paris , để lại cho tôi một nỗi buồn mang mác . Tôi nhớ Thầy, nhớ tuổi học trò dẹp trân quý .

Những ngày hè Paris yêu dấu
Nắng ươm màu lụa dòng sông Seine
Thầy trò ngồi ôn bao kỷ niệm
Cùng kể nhau nghe chuyện buổi đầu

Thuở hai mươi Cô con chim nhỏ
Giữa đám học trò tuổi măng non
Phan châu Trinh mái trường xưa ấy
Giờ chỉ còn da diết trong hồn
Hồi đó các em thật dễ thương
Cô vui trong nắng đẹp sân trường
Nhìn mắt Cô khung trời hoa mộng
Cánh phượng hồng rơi trong mắt ai
Tôi dìu Cô đi giữa phố phường
Buồn vui tôi gởi đến muôn phương
Cô ơi ! Paris  sao đẹp lạ
Phan châu Trinh , trường tôi vấn vương

ttps

Cuối năm 2004 : Chị Tôi
Tôi chưa một lần thấy mặt chị tôi. Chị vẫn ở xa tôi vạn dặm . Chị... như một chiếc bóng .Nhờ  cái duyên lạ lẫm cuộc đời ban tặng cho tôi , chị Kim Thành đã từ ngôi vị một cô giáo của Đại Gia đình Trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẳng , trở thành người chị vô vàn thương mến trong lòng tôi sau khi tôi khám phá ra chị chính là vợ của anh Trần Phước Hải, người Anh kết nghĩa của tôi ngày xưa , thuở còn bé tí , mà hoàn cảnh sống đã đưa đẩy mấy mươi năm lạc mất nhau.Nhớ cái Tết Ất Dậu 2005 , vào ngày Mồng Một Paris tức đêm Giao Thừa Cali , tôi nhận được email của chị với bài thơ khai bút đầu năm HONG TÌNH vỏn vẹn 4 câu :

Đêm Ba Mươi ngồi ôm bóng tối
Đốt hương trầm mở lối Sông Tương
Anh ơi xin hãy mau về
Cùng em thắp nến ta hong cuộc tình

Giữa ngày Xuân, đất trời rạng rỡ, mắt tôi bỗng dưng cay. Tôi nghĩ đến chị đang cô đơn giữa đêm Trừ tịch, ngồi đốt trầm hương chờ bóng Anh về. Tôi nhớ Anh... tôi thương chị , viết vội cái email “Chị ơi, em thương chị quá ! Chị đừng làm em khóc ".

Đấy, tình cảm của tôi và chị Kim Thành của tôi là thế đấy. Dù ở trong tình cảnh nào , cái tình cảm dễ thương đó chỉ có tăng chứ không hề giảm. Có lần tôi đã viết thư cho người em đồng môn tâm giao Lê Mạnh Trùy “ Trùy ơi, ngày xưa Trùy học với cô Kim Thành , Trùy có sợ cô Kim Thành không? Mình thì sợ chị Kim Thành lắm ! “ “Thật đó chị ơi, em sợ em không đền đáp đủ tấm lòng thương mến chị đã dành cho em mặc dầu với em bây giờ chị đã là tất cả, không gì có thể so sánh được . Tôi tiếc thầm sao ngày xưa tôi không có cái may mắn được làm học trò của cô Kim Thành. Năm chị về dạy Phan Châu Trinh cũng chính là năm tôi phải rời trường cũ ra Huế học sau khi đậu Tú tài 1 . Tôi nghĩ biết đâu được làm học trò chị Kim Thành, được chị dạy dỗ thương yêu , tôi sẽ không hoang nghịch làm phiền lòng Thầy Cô như tôi đã từng làm trong những năm tháng sống dưới mái trương Phan Châu Trinh đầy ắp kỷ niệm .Giờ đây đã 62 tuổi , đã  là Ông Nội Ông Ngoại , nhưng sao đối với chị Kim Thành tôi vẫn thấy mình là đứa trẻ thơ hay vòi vĩnh . Chị tôi rất nuông chiều tôi nhưng đôi khi cũng răn đe khiếp lắm. Tôi thường gọi CHỊ ƠI để cầu cứu những khi gặp chuyện buồn phiền không may , giống như ngày xưa tôi hay gọi MẸ ƠI để cầu cứu Mẹ . Trong tôi , chị Kim Thành là tổng hợp hình ảnh của người Thương cô đơn, người Thầy cao quí trong Đại Gia Đình Phan Châu Trinh thân ái , người Chị vô cùng trìu mến và người Mẹ nuông chiều tha thứ bao dung”.. Chị ơi chị ! em muôn vàn cám ơn trái tim bao dung tha thứ... của chị , em muôn vàn cám ơn chị đã cho em Hạnh phúc lớn cuối đời “.

Tháng 09-2005 vừa qua, kỷ niệm ngày giỗ Anh năm thứ hai, tôi biết chị buồn lắm, tôi đã viết gửi chị bài thơ MÙA THU CỦA CHỊ :

Chị ơi chị !
Mùa thu đang vội đến
Tháng chín về trời trở gió se da
Hàng cây dại ven con đường dốc đứng
Cũng trở mình theo nắng hạ ra đi
Nhìn lá thu rơi lìa cành tức tưởi
Chắc chị nhiều tâm sự gửi về anh
Có phải chị đang thấy
Mây trời vương mái tóc
Mây bồng bềnh theo bước chị lang thang
Có phải chị đang mơ
Đôi mắt anh thật hiền
Ngồi kể chuyện trăm năm
Như trong chuyện thần tiên cổ tích
 Anh về đây
Giữa thu vàng ngây ngất
Vòng tay ấm đưa nỗi buồn bay mất
Chị không còn ngồi khóc
Bởi bầu trời có muôn vạn ánh sao
Chị đã đọc được
Trên vầng trán anh
Vầng trán thông minh mà độ lượng
Chuyện tình xưa
Một sáng mùa xuân rực rỡ
Có mắt cười thay những nụ hôn

Anh ơi anh !
Xin anh hãy dìu em
Đến chân trời dịu mát
Nơi anh và em
Đã một lần ngồi hát
Bài hát ngày nào hai đứa yêu nhau
Hãy dìu em đi
Trên những con đường xưa hoa mộng cũ
Những con đường thuở đó lá me bay
Con đường đến giảng đường đại học
Quấn quít chân mềm áo lụa Thần Kinh
Con đường dẫn mình
Đến cầu Trường Tiền mười hai nhịp
Mà nhịp nào cũng một cõi riêng ta
Xin anh hãy kể em nghe
Kỷ niệm năm nào
Rộn ràng sân khấu sinh viên
Dưới ánh đèn lung linh mờ ảo
Em đóng vai nữ hoàng sầu não
Bên tình yêu điên đảo Ngô Phù Sai
Sông Hồ Phạm Lãi
Hay Bến Nước Ngũ Bồ áo chéo chân quê

Hôm nay
Mùa thu lại đến
Chị một mình bên mộ vắng đìu hiu
Ôn ngày tháng cũ
Thương mối tình thơ
Lòng nhớ khôn nguôi anh đi biền biệt
Hồn chị trôi dài theo sóng nước mông mênh
Tình thu sầu !
Tình thu sầu thấm vào lòng đất lạnh
Qua âm vang từ tiếc thương vọng lại
Anh nhận ra
Tiếng chị thì thầm
Chẳng bao giờ chị hết yêu anh

ttps

Niềm mơ ước của tôi giờ đây là mong có một lần được gặp mặt chị tôi . Tôi biết chắc chắn chị sẽ khóc và tôi cũng sẽ khóc ...
Tôi nghĩ là NHỮNG NĂM THÁNG VỀ SAU của một cuộc đời thăng trầm sẽ ngưng lại từ đây trong kỷ niệm êm đềm thương nhớ ...mơ hồ một chiếc bóng xa xôi.

Trên tàng cây đàn chim đua nhau hót
Bài ca dao ai hát giữa ban trưa
Em ngang qua che nụ cười khó hiểu
Anh nghĩ thầm gởi một chút riêng tư
Tuổi 18 tâm hồn nhiều bí ẩn
Ngỡ rằng em thầm kín lén trao lòng
Em hiện hữu nhưng chập chờn chiếc bóng
Ta lung tung dạo bước khắp thiên đường

Đứng ở đó mà ngu ngơ xao xuyến
Nhìn trời trong và mây trắng lang thang
Ta thấy được tình yêu vừa chạm nắng
Đã vỡ òa theo tiếng suối reo vui

Thôi biết rồi , em đừng tinh nghịch nữa
Thoáng bâng quơ một ảo ảnh lung linh
Trong mắt nhìn chứa lắm điều ngộ nghĩnh
Nụ cười tươi nhưng đầy ắp hững hờ
Nhiều tưởng tượng nên thấy đời tươi trẻ
Đầy chông gai , tình cảm vẫn còn nguyên
Đi lang thang thăm viếng khắp mọi miền
Tìm hình bóng ngày xưa dù mộng mị
Chiếc bóng đó là trăng hay là gió
Là muôn sao lộng lẫy giữa trời cao
Là tình yêu ôm ấp tự thuở nào
Đến bây giờ vẫn vấn vương trong nắng
Và hôm nay bỗng dưng ta gặp lại
........

Tôn Thất Phú Sĩ
Paris 10 Janvier 2006