SONG THAO
Bà Nhân ngồi trong phòng khách dễ chừng cũng đã hơn một tiếng
đồng hồ. Con nhỏ sao hôm nay tới chậm thế. Lại bận rộn tết nhất
ở nhà chắc. Ờ, lẽ ra tuần trước nó phải nói với bà là hôm nay không
đến chứ. Con nít gặp ngày tết mừng như lân gặp pháo ấy chứ. Thằng
Thắng, thằng Thịnh hồi bằng tuổi con nhỏ này mỗi lần tết đến lăng
xăng phải biết.
Đòi đủ thứ: quần áo mới này, tiền lì xì này, tiền
mua pháo này, dẫn đi chơi sở thú này, đi coi xiếc này...Chỉ thiếu
điều đòi mang ông trăng xuống chơi thôi. Trẻ con ấy mà. Có bao
giờ biết thế nào là đủ đâu.
Mi mắt bà Nhân xụp xuống mệt mỏi. Phải ráng chờ con nhỏ ít phút
nữa vậy. Tuần trước nó không nói với bà là tuần này không đến được
thì chắc nó sẽ đến. Con nhỏ này được cái rất trọng giờ giấc. Chẳng
có tuần nào để cho bà phải chờ lâu cả. Vậy mà hôm nay sao vẫn chưa
thấy mặt nó. Tết mà! Bà khẽ mỉm cười nghĩ đến ngày tết hôm nay.
Đêm qua bà thao thức ngủ không được. Lúc hai chiếc kim đồng hồ
dạ quang chụm lại báo giờ giao thừa bà đã nấc lên úp mặt xuống
gối cho khỏi gây tiếng động thức tỉnh bà Marie ở giường bên cạnh.
Lẽ ra giờ giao thừa bà phải thắp nén nhang cúng vái bố mẹ, chồng
con, những người đã từng chia xẻ với bà cả một quãng đời an bình
xưa cũ. Nhưng bà không muốn cái bà Marie khó chịu dễ ghét chu chéo
chì chiết nên bà đành phải nằm khóc thầm. Những giọt nước mắt trào
ra thấm xuống gối có mời gọi được những người đã khuất tề tựu bên
chiếc giường cô đơn của bà không? Bà nhớ lúc đó bà có liếc mắt
nhìn lên những tấm hình bầy một hàng dọc trên chiếc bàn nhỏ cạnh
giường ngủ. Ánh sáng từ những ngọn đèn đường rọi vào hắt hiu chập
chờn trên những khuôn mặt thân yêu. Nét mặt cương nghị nhưng khoan
hòa của ông Nhân, đôi mắt nghịch ngợm thông minh của thằng Thắng,
cái miệng nhỏ nhắn môi dưới đưa ra như lúc nào cũng hờn dỗi của
thằng Thịnh.
Mới đó mà tất cả đã bỏ bà nằm trơ trụi một mình trong cái Viện
Dưỡng Lão buồn thảm này. Ngày thằng Thắng xách ba lô tới đơn vị
mới ở tuốt tận ngoài Quảng Trị sau hai tuần nghỉ phép ra trường
Thủ Đức bà đã cầm tay nó bảo nhớ về thăm mẹ luôn nghe. Dặn là dặn
vậy thôi chứ bà cũng biết đời lính, đường xa cách trở mỗi lần về
là một lần khó.
Vậy
mà chưa đầy một tháng người ta đã chở nó về. Chiếc quan tài phủ
quốc kỳ chưa lọt qua cổng nhà bà đã bổ nhào bất tỉnh ngay giữa
sân. Cái xác chết trẻ của thằng Thắng chẳng ngăn được bước tiến
của giặc. Mảnh đất của biết bao nhiêu người đổ mồ hôi, tưới máu
đào lên để giữ gìn cứ co cụm dần như một miếng da bò hơ trên lửa
nóng. Chỉ trong ít ngày ngắn ngủi mà thành quách tan hoang, đất
nước ngã chết một cách tức tưởi. Thằng Thịnh ôm chiếc túi vải lên
đường đi học tập. Nghĩ là chỉ đi mười ngày mà ở tới năm năm cho
tới khi thân tàn ma dại nằm xuống tuốt tận ngoài núi rừng miền
Bắc. Bà chẳng một lần được nhìn thấy mộ thằng con út.
Hai đứa con trai, một đứa chết dưới bom đạn trong thời chiến, một
đứa chết giữa thù hằn trong thời bình. Còn lại hai vợ chồng già
trốn chạy quá khứ dắt nhau vượt biên. Tưởng thoát được sang tới
bên đây là yên ấm, ai ngờ chỉ được vài năm ông Nhân đang uống rượu
nói nói cười cười bỗng gục xuống chết trước những cặp mắt thất
thần của bạn bè.
Ba bức hình của ba người đã khuất nằm hàng ngang trên chiếc bàn
nhỏ chẳng ra một cái bàn thờ. Ngày đầu tiên vào Viện Dưỡng Lão
bà Nhân cũng có mang theo bó nhang định hương khói cho người chết
khỏi lạnh lẽo. Bà bày mấy tấm hình lên, đốt một que nhang thỉnh
linh về là đã gặp ngay rắc rối. Mùi nhang vừa tỏa ra thì bà Marie
ở chung phòng với
bà tai thì điếc mà sao mũi lại thính đến thế. Bà ta ôm mặt nhảy
mũi liên tiếp. Đôi mắt long sòng sọc nhìn qua chiếc bàn thờ giản
dị đến tội nghiệp của bà Nhân làm hiệu cho chiếc miệng xuệch xoạc
la hét ầm ĩ kéo theo đôi tay run rẩy ấn vào nút chuông điện tưởng
chừng như chiếc nút nhỏ bé có thể chìm lĩm vào trong tường như
không. Bà y tá Jeanne phốp pháp trực phòng bữa đó vừa lạch bạch
chạy vào thì bà Marie một tay bịt mũi một tay nhịp nhịp chỉ vào
cây nhang đang hững hờ nhả khói nghiêng ngả. Bà Jeanne ôm vai bà
Marie vỗ về nhỏ nhẹ như đang dỗ một đứa trẻ. Đợi tới khi bà ta
bình tĩnh lại ngồi xuống giường, bà Jeanne mới qua phía bà Nhân
nói huyên thuyên một hồi. Bà Nhân hồi nhỏ có học võ vẽ ít tiếng
Pháp nhưng cái tiếng Pháp thiệt nơi đây với cái tiếng Pháp trong
sách vở còn rơi rớt lại trong đầu bà như chẳng ăn nhập gì với nhau.
Bà Jeanne nói thì nhiều nhưng những gì bà Nhân cảm được chẳng có
bao nhiêu. Bà Nhân lờ mờ hiểu được là bà Jeanne nói lời hơn thiệt
để bảo bà dẹp bỏ cây nhang đi. Bà Jeanne vỗ vai bà Nhân, cười cười
nhìn vào mắt bà rồi chậm rãi rút cây nhang đi vô phòng tắm dập
tắt bằng nước trước khi bỏ vào giỏ rác. Vẫn với cử chỉ nhẹ nhàng
thận trọng, bà cười với bà Nhân trong khi tay thu dọn đôi chân
đèn cầy và chiếc lư hương nhỏ bằng đồng cất vào trong tủ riêng
của bà Nhân. Bà Nhân ngồi bất động nhìn chiếc bàn thờ trống trải
không cầm được nước mắt. Sợi dây vô hình nối kết bà với chồng con bỗng rời ra như một
sợi bún nát nhoẹt trong nước. Bà cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.
Bà Jeanne thổ thổ lên lưng bà vài cái rồi nhẹ nhàng đi ra.
Ngày hôm qua bà Nhân rất hài lòng khi qua mặt được bà Marie. Bà
sửa soạn đón chồng con về ăn tết mà bà Marie chẳng hay biết gì
cả. Dưới nhà có một cửa tiệm nhỏ bán ít đồ dùng lặt vặt cộng thêm
ít trái cây và vài bó hoa. Bà Nhân mua một bó hoa và ít trái cây
mang lên phòng. Bà cắm hoa vào một chiếc ly thủy tinh đặt ngay
trước những tấm hình chồng con. Bà lấy một chiếc đĩa đẹp nhất bày
mấy trái táo đỏ, chùm nhỏ xanh và vài trái đào mơn mởn nhung tơ.
Cũng là một đĩa quả cúng tàm tạm được.
Bà Marie thấy chuyện lạ chong mắt ngó qua miệng không ngừng nuốt
nước miếng. Bà Nhân tương kế tựu kế lựa một chùm nhỏ nhỏ nhỏ, một
trái táo và một trái đào còn lại trong bao đưa cho bà Marie. Bà
già háu ăn vồ lấy miệng lia lịa nói Merci! Merci!. Bà
Nhân nhoẻn miệng cười tươi kéo theo cái miệng móm mém của bà Marie
cũng cười tươi không kém. Làm như bà bày trái cây để ăn chứ không
phải để cúng. Bà chặc lưỡi. Thiện tâm nằm sâu trong lòng bà Marie
nào biết được.
Sáng nay bà Nhân xuống nhà sớm mua một bó hoa đày màu sắc xoắn
xít tươi vui. Để cho con nhỏ. Lẽ ra phải cho nó hộp bánh hộp kẹo
gì mới đúng nhưng cả cái cửa tiệm trong Viện Dưỡng Lão chỉ toàn
bánh kẹo để trong gói nhỏ xíu. Chẳng có một hộp bánh kẹo nào cho
ra hồn để tặng con nhỏ vào một ngày trọng đại như ngày hôm nay.
Bà đành phải mua bó hoa. Chắc con nhỏ cũng thích hoa chứ.
Bà ngồi ôm bó hoa trên người chờ con nhỏ. Nước đọng trong những
cành hoa thấm ướt tờ giấy gói in hình sặc sỡ để lại một vệt đậm
màu trên vạt áo nâu non có điểm những bông hoa màu hồng nhỏ xíu
của bà. Sáng nay bà đã định mặc chiếc áo dài để cho con nhỏ sống
ở xứ người thấy vẻ trang trọng thiêng liêng của ngày tết. Nhưng
nghĩ đi nghĩ lại bà bỏ ý định đó. Chiếc áo dài lạ mắt chắc chắn
sẽ kéo cả Viện tới coi bà như coi một người từ hỏa tinh xuống.
Rồi thấy sự lạ người ta sẽ xúm xít lại hỏi han. Chữ nghĩa đâu mà
giải thìch. Có miệng cũng như câm. Có tai cũng như điếc. Người
ta xếp bà vào ở chung với bà Marie điếc thậm điếc tệ kể cũng đúng.
Chẳng ai phải nói với ai. Sáng dậy bonjour một cái, tối
đi ngủ bonne nuit một cái là xong. Chào nhau mà hò hét
như hô khẩu hiệu.
Trong Viện ai cũng biết bà lạc lõng cô đơn cho nên mọi người đều
chào đón tươi cười với bà. Những nụ cười thật đáng quí nhưng không
đủ. Bà Jeanne cũng biết vậy nên luôn luôn dỗ dành bà là khi nào
có một bà cùng xứ sở với bà nhập Viện thì họ sẽ xếp cho hai bà
ở chung một phòng. Lúc ấy tha hồ mà trò chuyện. Bà Nhân mong chờ
từng ngày nhưng chẳng thấy tăm hơi niềm vui của bà đâu. Bà ứa nước
mắt khi nghĩ có lẽ bà là người di tản duy nhất bị bỏ cô đơn trong
Viện Dưỡng Lao.
Một buổi sáng bà Jeanne hớt hơ hớt hải tới báo cho bà một tin vui.
Trong đám học sinh thiện nguyện tới Viện thăm viếng trò chuyện
với các bà năm nay có một con nhỏ Việt Nam. Mỗi chủ nhật con nhỏ
sẽ tới chơi nói chuyện với bà vài tiếng đồng hồ. Từng sớ thịt,
từng mạch máu trong người bà Nhân căng phồng lên. Cuối cùng trời
đất cũng mang lại cho bà được một người đồng hương.
*
* *
Con nhỏ lách người qua chiếc cổng sắt lớn già nua cũ kỹ như
những bà già trong Viện. Đôi mắt bà Nhân vừa bắt được hình dáng
con nhỏ mảnh mai dưới trời tuyết thì chiếc miệng của bà đã khó
khăn vẽ ra một nụ cười thiếu trước hụt sau. Mẹ mày! Để bà chờ bắt
mệt. Bà khẽ mắng yêu. Con nhỏ co mình trong chiếc áo choàng sậm
mầu, chiếc túi đeo lưng được vắt hững hờ trên một bên vai, đang
thận trọng tiến từng bước trên đường ngập tuyết trơn láng. Trông
dễ ghét quá đi. Bà Nhân khẽ lầm bầm trong miệng, đôi mắt như muốn
nuốt chửng con nhỏ.
Con nhỏ thực ra cũng có tên. Một cái tên tây. Bà Nhân cố nhồi nhét
cái tên này vào trong đầu mà cứ trật vuột hoài. Tên với tuổi chi
mà khó khăn quá. Cũng chẳng trách được nó. Nó sanh đẻ ở bên này
thì mang tên tây cũng là chuyện thường. Chỉ tại cái đầu của bà
chui ra khỏi bụng mẹ ở tuốt tận một làng quê nghèo khổ nắng chang
chang quanh năm suốt tháng lại bị cuộc đời vứt lăn ra ở một Viện
Dưỡng Lão tuyết ngập trắng xóa như thế này nên không kham nổi cái
tên con nhỏ. Đành cứ vắng mặt nó thì gọi là con nhỏ, có nó trước
mặt thì kêu bằng cháu. Vậy mà hóa ra thân mật.
Cánh cửa kính cồng kềnh nặng nề vừa được đẩy ra xua một luồng khí
lạnh kéo ập vào chỗ bà Nhân ngồi. Bà khẽ rùng mình ớn lạnh. Con
nhỏ lách người vào thấy bà ngồi đó bèn nhoẻn miệng cười chào:
- Hi, bà!
- Hai với ba cái gì. Bà dặn cháu hoài là gặp người lớn phải chào
hỏi cho đàng hoàng, cháu không nhớ sao?
Con nhỏ rụt cổ, le lưỡi, nhún người mấy cái rồi làm bộ vòng hai
tay trước ngực, cúi đầu xuống một cách trịnh trọng quá đáng, chậm
rãi nói như một diễn viên ngoại quốc nói tiếng Việt trên sân khấu:
- Thưa bà, hôm nay bà có mạnh giỏi không?
Nói xong nó lấy tay bịt miệng cười khúc khích làm bà Nhân không
nhịn được phải cười theo. Nó mon men lại gần bà, xoa xoa chiếc
lưng cong của bà hỏi:
- Hôm nay bà đợi cháu chắc dài lắm nhỉ? Bà có biết cái gì xảy ra
cho cháu không?
Thứ tiếng Việt kiểu tây của con nhỏ lúc đầu làm cho bà Nhân khó
chịu bắt nó sửa đi sửa lại cho đúng. Mấy lần đầu con nhỏ chịu khó
làm theo nhưng nói câu nào cũng bị bà Nhân bắt nói lại, nó nổi
lì nhất định ngồi không nói gì nữa. Bà Nhân thấy tình thế bất lợi
vì bà là người cần nói hơn nó nên bà nhượng bộ để mặc cho con nhỏ
muốn nói gì thì nói miễn là bà hiểu được thì thôi.Nhiều lúc nghĩ
đi nghĩ lại bà thấy mình khe khắt một cách vô lý. Con nhỏ sanh
đẻ ở bên này nói tiếng Việt được như vậy là quí rồi. Nhiều đứa
có nói được một chữ nào đâu.
Bà giả lả trả lời con nhỏ:
- Ờ, hôm nay cháu tới trễ làm bà đợi khá lâu nhưng bà biết tại
sao rồi.
- Tại sao vậy?
- Vì hôm nay là ngày tết chắc cháu còn bận ăn tết ở nhà với bố
mẹ cháu chứ gì. Bà còn tưởng cháu không tới nữa ấy chứ!
Con nhỏ lắc đầu quầy quậy:
- Không phải như vậy đâu. Nhà cháu có ăn uống gì đâu. Cháu lấy
phải một chiếc xe buýt bị hư phải xuống đường đứng chờ chiếc khác
đi tới. Bà biết không, buýt ngày chủ nhật nó thưa thớt lắm. Cháu
đợi dài thiệt dài mới có chiếc khác nó đi tới nên cháu tới trễ.
Bà Nhân nắm tay con nhỏ suýt soa:
- Tội cháu quá! Trời lạnh như thế này mà phải đứng đợi lâu giữa
đường như vậy. Lần sau cháu phải tìm một chỗ nào vào đứng cho ấm
kẻo bị cảm thì khốn. Mà bà hỏi cháu hôm nay nhà cháu ăn tết có
vui không?
Con nhỏ giương cặp mắt đen láy lên ngơ ngác nói:
- Có gì vui đâu!
Bà Nhân sững người trước câu trả lời của con nhỏ. Thật khác xa
với những gì bà trông đợi. Coi bộ con nhỏ chẳng mặn mà gì với ngày
tết cổ truyền của dân tộc. Mỗi năm mới có một lần tết mà nó chẳng
coi ra gì cả. Hay là nó không hiểu câu hỏi của bà. Dù gì đi nữa
thì nhà nó cũng phải ăn tết chứ. Bà nhắc nhở nó mà như nhai lại
những cái tết trong đời bà:
- Thì tết mỗi năm mới có một lần phải vui chứ. Cả nhà quây quần
rước ông bà ông vải về ăn tết này, cha mẹ con cái mừng tuổi nhau
này, bố mẹ lì xì cho con cái này, mọi người rượu chè ăn uống vui
vẻ này, xúm nhau vào đánh bài đầu năm lấy hên này...Vui quá đi
chứ phải không cháu?
Tiếng bà Nhân vỡ vụn rạn nứt. Bà nói một mạch không ngưng nghỉ
như sợ những ý nghĩ vọng tưởng từ những cái tết xa xưa phút chốc
có thể quày quả bỏ đi. Những hình ảnh nhộn nhịp của nhiều cái tết
trong đời ồn ào dắt díu nhau về làm những giọt nước mắt tủi phận
của bà Nhân hối hả tươm ra. Giờ này chỉ còn mỗi mình bà đeo lấy
cuộc sống nghiệt
ngã chán chường. Nào chồng, nào con, mới đó mà biệt tăm chẳng còn
một ai. Mỗi người đi mỗi ngả, mỗi người chết mỗi cách. Những giọt
nước mắt tiếp nối nhau chảy xuống thấm ướt đôi má nhăn nheo cằn
cỗi. Giọt nào cho chồng, giọt nào cho con, giọt nào cho thân phận
lẻ loi nhọc nhằn.
Con nhỏ sững sờ trước khuôn mặt bất động lạnh tanh của bà Nhân.
Nó chẳng hiểu chuyện gì xảy ra làm bà Nhân bỗng thay đổi như vậy.
Nó chẳng biết bà Nhân vừa lảm nhảm nói những gì. Nhà nó có gì vui
vẻ như bà Nhân nghĩ đâu. Nó lắp bắp nói:
- Cháu đâu có biết bà nói gì đâu. Nhà cháu cũng vậy vậy thôi. Mà
sao bà giống bà cháu quá. Nói lung tung một hồi rồi khóc. Thôi
đi bà!
Nó mở túi đeo vai lấy khăn giấy đưa cho bà Nhân lau mắt. Bà Nhân
vừa chậm những giọt nước mắt nóng hổi vừa hỏi:
- Cháu cũng có bà sao?
- Hồi xưa cháu có bà nhưng ngưng rồi.
Bà Nhân nhướng mắt nhìn con nhỏ lắc đầu nói:
- Cháu nói sao bà không hiểu.
- Thì cháu có bà nhưng hết có bà rồi.
Bà Nhân gượng gạo cười :
- Cháu muốn nói bà cháu mất rồi phải không?
- Mất là sao?
- Là chết đó.
Con nhỏ gật gật đầu thú vị như vừa tìm ra một món đồ chơi thất
lạc từ lâu:
- Đúng rồi! Chết. Bà cháu chết từ ngày xưa lận. Bà cháu dậy cháu
nói tiếng Việt Nam. Rồi bà cháu chết làm cháu quên mất nhiều chữ
lắm.
- Thế bố mẹ cháu không nói tiếng Việt với cháu sao?
- Bố mẹ cháu thưa thớt ở nhà lắm. Lúc nào cũng ở chỗ đặt xưởng
may. Cháu với chị cháu nói tiếng tây với nhau không à. Tối họ về
thì cháu đi ngủ rồi. Cuối tuần cũng vậy. Họ không có ở nhà.
- Hôm nay bố mẹ cháu cũng không có ở nhà à?
- Không.
- Vậy thì nhà cháu đâu có tết nhất gì!
Bà Nhân chép miệng thở dài. Thời buổi lạ lùng thật. Tết nhất chẳng
màng tới mâm cơm cúng tổ tiên cùng những người khuất mặt khuất
mày thì còn ra sao nữa. Phần bà đã đi một lẽ. Ăn nhờ ở đậu lại
chung chạ với những người chẳng cùng nòi giống thì đành chịu thôi.
Còn đằng này nhà cửa biệt lập chẳng ai dòm ngó mà cũng chẳng nhớ
cúng quẩy ông
bà ông vải. Lâu ngày chày tháng trẻ nhỏ còn biết gì tới lễ nghi
phong tục nữa. Bà nhìn con nhỏ bằng ánh mắt thương hại. Cháu chỉ
có cái hình hài Việt Nam thôi sao? Bà run run đặt tay lên vai con
nhỏ lo lắng hỏi:
- Hồi bà cháu còn sống chắc nhà cháu cũng có ăn tết chứ?
Con nhỏ thả cặp mắt xa vắng như cố trở về với quãng thời gian mù
mịt sương khói của thời có bà có cháu. Cặp môi non hồng chúm chím
uốn qua uốn lại đào sâu trí nhớ tưởng đã biền biệt xa cách. Giọng
con nhỏ ngập ngừng:
- Có thể như vậy. Cháu nhớ bà cháu có làm cái bánh gì vuông vuông
đó.
Mắt bà Nhân như ngọn đèn vừa được thắp sáng. Bà lụp chụp vội vàng
nói như sợ có ai tranh nói mất:
- Bánh chưng đó cháu. Ngày tết là phải có bánh chưng mới ra tết.
Vùng ký ức của con nhỏ bỗng thênh thang mở ra như một chiếc bánh
chưng được bóc lá. Những ngày tháng mượt mà như mặt bánh bóng nhãy
xanh lường làm con nhỏ nói tía lia:
- Bà cháu còn mua trái cây về đổ vào đường làm tan thành nước.
Bà Nhân lụp chụp nói nước miếng như muốn trào ra khỏi miệng:
- Mứt đấy cháu. Thơm ngon phải biết!
- Bà cháu làm nhiều thứ thịt lắm. Có lúc gói tròn như cái ống.
Có lúc bỏ vào nồi nấu lâu lắm.
Bà Nhân chồm người tới trước, mắt ngời sáng:
- Giò chả, cỗ bàn đó. Tết là phải vậy!
Con nhỏ lim dim đôi mắt cố gắng lôi ra cả mảng quá khứ xa xăm:
- Bà cháu bày bàn thờ có nhiều hình lắm, có các thứ thịt bà cháu
nấu, có đèn nến sáng lắm, có cây đũa đốt ra khói có mùi kỳ lắm,
có nhiều trái cây đẹp lắm...
Bà Nhân nhắm nghiền đôi mắt thèm khát lắng nghe tiếng con nhỏ văng
vẳng bên tai. Bà như thấy hiển hiện trước mặt khung cảnh nhộn nhịp
huy hoàng của một ngày tết. Khuôn mặt bà đờ đẫn xa vắng. Những
cái tết rực rỡ xum xuê kéo nhau trở về ẩn núp dưới mái tóc mỏng
manh bạc trắng như cước. Chiếc miệng khô cằn nếm đủ mùi cay đắng
khẽ nhếch lên khó khăn làm thành một nụ cười vụng dại. Tết. Những
ngày hoa đăng có chồng, có con, có tiếng pháo, có mùi nhang, có
lung linh ánh nến, có dồn dập trống lân, có những câu chúc làm
ấm lòng nhau, có những mời chào bên mâm cỗ đầy. Những ngày vàng
son đó đã biền biệt mất hút bỏ lại bà ngồi trơ khấc với đứa con
gái Việt lạc lõng trên đất nước người trong một ngày tết tuyết
phủ ngập trời ngập đất. Từ đôi mắt nhắm nghiền những giọt nước
mắt nóng hổi lăn mình xuống đôi má hóp hép cằn cỗi.
Con nhỏ ngơ ngẩn nhìn nét buồn trên mặt bà Nhân khẽ trách yêu:
- Đấy, bà lại khóc nữa rồi. Sao bà giống bà cháu quá. Lúc nào cũng
khóc được.
Bà Nhân mở mắt ra. Bốn hàng lông mi thưa thớt nhạt nhòa nước mắt.
Bà đưa tay lên quệt ngang mặt cố lấy giọng bình tĩnh hỏi:
- Bà cháu cũng hay khóc lắm sao?
- Khóc hoài bà ơi. Ăn cơm cũng khóc. Ngồi xem ti vi cũng khóc.
Đọc thư cũng khóc. Thư của các cậu các dì ở Việt Nam đó. Bà cháu
buồn quá rồi chết luôn.
Bà Nhân ái ngại nhìn con nhỏ:
- Buồn quá mà chết được hả cháu?
- Bố mẹ cháu bảo như thế.
Bà Nhân nắm tay con nhỏ nói như người mơ ngủ:
- Có ai buồn bằng bà đâu mà sao bà vẫn chưa chết được.
Con nhỏ quàng tay lên vai bà Nhân. Đôi vai xương xẩu nhô lên như
đôi cánh chim đang bần bật rung lên cùng với tiếng thút thít cố
nuốt sâu vào trong lòng. Sao tôi không chết đi cho rồi? Tiếng bà
Nhân nghẹn ngào chìm đắm trong vũng nước mắt đang ứa ra như nước
vỡ bờ. Mấy bà già quanh quẩn gần hai bà cháu nhìn sững sờ không
chớp mắt. Như thể họ
đang say sưa coi một trò lạ hiếm khi xảy ra trong cuộc sống lê
thê nhàm chán của những tháng ngày già nua dài dằng dặc. Con nhỏ
vừa ngượng ngùng mắc cở vừa bối rối trước một tình huống bất trắc
làm nó không biết phải xoay trở ra sao. Nó bất thần lớn tiếng trấn
áp:
- Bà khóc hoài như vậy lần sau cháu sẽ không đến với bà nữa đâu.
Kỳ cục quá đi!
Bà Nhân sợ hãi lắp bắp năn nỉ bằng cái miệng xô lệch méo mó:
- Bà xin cháu...Bà không khóc nữa đâu...Tuần sau cháu tới với bà
nghe...Tội nghiệp bà mà...
Con nhỏ vỗ về bà như vỗ về một đứa trẻ biết lỗi lầm của mình:
- Bà bằng lòng không khóc thì cháu sẽ đến chơi với bà nhiều nữa.
Bà Nhân khó khăn kìm hãm những tiếng nức nở còn rơi rớt lại. Bà
nói với con nhỏ mà như nói với riêng mình:
- Bà không khóc nữa đâu. Ngày tết ai mà khóc.
Những giọt nước mắt vẫn còn ứa ra từ đôi mắt nhăn nheo như hai
trái táo tầu bị bỏ mốc lâu ngày. Con nhỏ ngồi yên lặng nhìn khuôn
mặt héo hon của bà Nhân như nhìn một bức tượng buồn phiền. Nó khẽ
nắm bàn tay gầy guộc khô đét của bà Nhân:
- Đã đúng giờ cháu phải đi về rồi bà. Cháu đưa bà lên phòng xong
rồi cháu về nghe.
Bà Nhân nắm chặt lấy tay con nhỏ giọng hoảng hốt:
- Tới giờ cháu về rồi sao? Bà lại bơ vơ suốt tuần nữa rồi!
Bà Nhân giật mình đảo mắt nhìn quanh. Bó hoa đã bị bỏ sang bên
cạnh bà từ hồi nào bà chẳng nhớ. Có lẽ từ lúc bà vất vưởng khóc
lóc. Bà nhoài người qua ôm bó hoa trao cho con nhỏ:
- Bà tặng cháu bó hoa để cháu nhớ hôm nay là ngày tết của bà cháu
mình.
Con nhỏ nói không khách sáo:
- Cháu cám ơn bà. Cháu về nghe! Tuần sau cháu lại tới. Bà không
được khóc nữa nghe! Bà thử cười lên coi nào.
Mặt bà Nhân hiện lên một nụ cười ngu ngơ. Con nhỏ vỗ tay cười lại.
Một tay cầm bó hoa, một tay xách chiếc túi lên vai, con nhỏ quay
người bước ra khỏi cửa. Bà Nhân nhìn theo dáng đi nhanh nhẹn của
con nhỏ tay vung vẩy bó hoa cầm ngược một cách cẩu thả như muốn
quét trên mặt tuyết. Bà không biết là nụ cười vô tri mà bà cố giữ
cho con nhỏ vui lòng làm mặt bà méo mó tội nghiệp.
|