SỐ 30 - THÁNG 4 NĂM 2006

 

Thư Tòa Soạn

Thơ

Vứt bỏ
24 Hà Phú Đức
Hương Ngọc Lan
24
Phạm Hồng Ân
Tháng tư tôi gửi

23
Hoàng Du Thụy
Em là bóng nguyệt
21
Huỳnh Kim Khanh
Mẹ ơi biển gọi
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Buồn trốn trong thơ
18
Kim Thành
Nhớ bạn say
17Maihoado

Truyện ngắn, Tâm bút

Hồn tàu
13
Hoàng Du Thụy

Một chân trời mới
13
Nguyễn Hồng Quang
Kim Thành-Người sương phụ làm thơ
14
Phan Thái Yên

Em có nghe gió nói gì không
14
Võ thị Đồng Minh
Ngọn Thái Sơn
7Cỏ Biển

Gió sa mạc

15
Nguyên Nhi
Như giọt sương khuya
15Hoàng Mai Phi
Phiếm luận văn chương (2)
8Huỳnh Kim Khanh
Còn đó bóng hình
8Song Thao
Nhớ
8Vũ Hoàng Thư

Văn học, biên khảo

Nhà Trần khởi nghiệp (4)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành
4Ngô Văn Xuân
Bông Dã Quỳ
4Xuân Phương
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 17

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Thằng Nèm
2 Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 24
1 Huỳnh Kim Khanh


 

Gió sa mạc

 

Ông già khum khum lưng bàn tay che mắt. Mặt trời đã lên cao nhưng dãy phố bìa sa mạc này vẫn còn tê ngủ. Cổ, tay áo ông bay phần phật. Gió lớn. Gió, nghe âm âm đâu từ bên kia dãy núi, luồn lách hung hãn qua những sườn đèo, đổ bộ xuống cánh đồng dại, làm sóng dữ trên mặt thảm hoa vàng. Phải hủy chuyến đi dạo thường lệ thôi! Ông già quay lại chiếc ghế đá dưới giàn hoa giấy bên hiên, đốt cối thuốc đầu ngày. “Ở nhà vậy, bạn ta!” Ông già vỗ vỗ hông con chó. Con chó, đã ngán đuổi loắng quắng theo những chiếc lá khô, nằm ngoan xuống bên chân ông, hai tai cụp đến má.

“Chào bác! Gió quá! Vẫn không có gì cho bác ạ!” Cô gái bưu tá viên vẫy tay khi băng qua sân cỏ.

“A, cháu... Ta hiểu! Ta biết bà ấy sẽ không bao giờ gọi hay viết cho ta đâu!” Ông già ngượng nghịu.

“Thế còn mấy con bác?”

“Bọn chúng cũng bận lắm. Trôi những dòng riêng!” Ông già thở dài. “Bây giờ ta chỉ còn trông đợi giấy tờ trợ cấp hưu bổng và tờ tạp chí Việt Nam thôi!”

“Thế đấy!” Cô gái chậc lưỡi. “Chúc một ngày tốt lành.”

oOo

Sau đám cháy, người trong phố chỉ biết bấy nhiêu chuyện về ông già trong ngày gió lớn ấy. Cảnh sát sở tại cũng chẳng hề truy cứu gì thêm dù đã được cô gái cung cấp thêm một chi tiết quý giá: buổi sáng ấy có một chàng thanh niên lạ mặt đến gặp ông già. Bảo anh ta hai mươi cũng được. Ba mươi cũng xong. Thật khó lòng lượng tuổi một thanh niên Á Châu có màu mắt và nét mũi Tây Phương. Chàng đỗ xe bên kia đường khi cô gái vừa ném túi thư vào xe cộ Con chó gầm gừ dưới chân ông già. Cô gái nghe chàng xưng tên. Cái tên thật khó nhớ trong âm ngữ lơ lớ. Chàng đưa ông già mảnh giấy nhỏ và hỏi tin tức về người trên tờ giấy. Rồi ông già bắt tay chàng thanh niên. Cô bưu tá viên chỉ khai có vậy. Cô phải thanh toán gấp đống thư từ bề bộn trước cái hẹn cuối tuần với bạn trai cô ta.

oOo

“Cuối cùng rồi ta đã gặp nhau!” Giọng chàng trai căng thẳng.

“Ta không hiểu. Ta không biết duyên do nào anh có ý tìm gặp ta!” Ông già nheo nheo mắt.

“Ông đã ở Việt Nam năm năm. Tôi cũng đã mất chừng ấy năm để có tin tức ông từ văn phòng Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ. Vậy mà, trước khi rời nước, tôi đã nghĩ tôi có thể tìm ra ông trong vòng năm tuần lễ.” Chàng trai hạ giọng.

“Không sao!  Điều quan trọng là cuối cùng rồi... ta đã gặp nhau.”

“Ồ, ta vẫn chưa hiểu là ... Được, cứ thư thả... nếu anh có thời giờ.” Ông già ngần ngừ. “Lúc ấy ta vừa tốt nghiệp đại học. Ta trẻ trung, bồng bột, sôi nổi. Đầy ắp lý tưởng. Lãng mạn. Thích phiêu lưu. Nhiều lần ta đã định một người một ngựa vượt qua cái sa mạc khốn khổ kia trong trang phục của một gã chăn bò. Ta sẽ bắt gặp đâu đó trên đường đi những mẩu xương súc vật, sừng trâu. Ta sẽ ngồi nghỉ nắng đâu đó dưới bóng những cụm xương rồng. Đất trời chỉ có ta. Và gió...”

“Nhưng tôi định nói...”

“A, xin lỗi! Xin lỗi! Ta lẩm cẩm quá! Đừng trách người già, anh bạn trẻ!” Ông già cười khan. “Ta đã tình nguyện vào quân đội và sang đánh nhau ở quê hương anh. Ngày ấy... Nhưng càng lún sâu vào cuộc chiến tranh chết tiệt ấy bao nhiêu ta lại càng chán chường bấy nhiêu. Ta rời quê hương anh với nỗi tuyệt vọng cùng cực, hối tiếc rằng lý ra ta không nên rơi vào mớ bòng bong ấy.”

“Vâng, ông có lý do để hối tiếc!”

“Hối tiếc! Ta vừa nói vậy sao? Xin lỗi, ta lẩm cẩm quá!  Lạ nhỉ...” Ông già lẩm bẩm. “Cái lý tưởng ấy chỉ sáng tỏ sau  mười lăm, hai mươi năm bị bôi đen...Nhưng anh vào nhà chứ? Gió nhiều đấy...”

Gió dựng bờm tóc hàng cọ bên kia đường. Gió xoay tít cánh quạt trên nóc nhà trước mặt. Gió đóng sầm cánh cửa phía sau lưng ông già.

“Ông ở một mình?” Chàng trai ái ngại hỏi.

“Ừ, con chim ưng già cỗi. Móng vuốt đã cùn. Cô đơn chóp núi.” Giọng ông già trở nên xa xôi. “Tất cả đã rời bỏ ta rồi. Người ta bảo trong ta có cái hội chứng tội nghiệp ấy...Ô, anh có thể hút thuốc được.” Ông đẩy cái gạt tàn về phía chàng trai.

“Thời gian của ông bây giờ phải lê thê biết bao.” Chàng trai cầm tờ tạp chí Việt Nam. Chàng ngắm nghía những trang màu có hình tàu chiến, phi cơ, những cảnh khói lửa ngoạn mục

“Đấy, ta chỉ còn lại chút kỷ niệm. Chút hồi ức một thời để yêu. Con chim ưng già hồi tưởng những cuộc săn xưa.”

Đôi mắt ông già đờ đẫn hơn. “Mỗi ngày ta ngồi đây mà cứ tưởng đang trấn đâu đó ở một căn cứ hỏa lực nào.

Bridgeston?  Khe Sanh? Ôi, làm sao ta nhớ hết. Trên những con đèo ngất mây của dãy Trường Sơn kia là trùng trùng những đoàn xe nam tiến. Và gió. Gió Lào. Cái thứ gió ác liệt hấp da đốt tóc. Như gió ở đây. Từ bên kia hoang mạc thốc về. Thời thanh niên nhiều lần ta đã định vượt qua cái hoang mạc khốn khổ ấy. Trong trang phục của một gã cao bồi...”

“Nhưng tôi chỉ có một ít thời giờ.” Chàng trai ngắt.               

“Ta đang nói về...”

“À... những tiền đồn! Vậy mà, sau lưng ta, chỉ cách một tầm bay nhỏ nhoi là cả một thành phố nhộn nhịp. Những thành phố mọc chỉ trong một đêm rồi cuống cuồng sống vội một ngày như thể đã biết và không muốn nghĩ gì thêm về cơn đại hồng thủy hôm sau. Cũng như ở đây, sau lưng con phố này...”

“Và, ở đó, ông đã có những cuộc vui?”

“Những cuộc săn. Ồ ... bẫy người ...” Giọng ông già đanh lại.

“Chỉ vậy thôi à? Tiếc thật!” Chàng trai chép miệng.

“Hừm, cũng không hoàn toàn như vậy. Cũng có một ngoại lệ đáng buồn.” Ông già tư lự. “Nàng tản cư từ một vùng quê lửa đạn nào đó. Nàng cô đơn, khắc khoải như, ... biết diễn tả thế nào đây nhỉ, à...như một cội xương rồng.”

“Ông có được chút hạnh phúc nào không, trong những phút giây ngắn ngủi với nàng?”

“Ta không biết, anh bạn trẻ. Ở phương Đông, người ta hay suy nghĩ về cuộc sống hơn là sống. Còn ta, nếu phải suy nghĩ, ta chỉ có thể khái quát một điều: Đời sống là những cuộc săn, những cái bẫy lớn. Lắm khi kẻ đi săn lại bị sụp bẫy!  Này, lý tưởng tự do cũng là một cái bẫy đấy, bạn trẻ!”

“Ông định nói gì về chúng tôi chăng? Về những người tị nạn?” Chàng trai bực dọc.

“Mà thôi, hãy nói về nàng. Nàng đã nhục nhằn biết bao khi chung sống với ta. Xứ sở của anh bạn có đầy dẫy những điều đố kỵ. Ta không hề thấy một ánh mắt có thiện cảm nào về phía đồng bào anh bạn. Khổ cho nàng, nàng lại yêu ta. Ta tin thế! Mà ta thì ... May quá, ta chẳng chút mảy may yêu nàng. Nàng chỉ giúp ta quên đi cuộc chiến tranh khốn nạn kia trong thoáng chốc. Nhưng ta vẫn nghĩ một ngày nào đó nàng sẽ lại tìm ta.”

“Không đâu! Nhưng bà ấy có gởi cho ông một lá thư.” Chàng trai cắt đột ngột.

“Thư ?” Ông già chồm dậy, mắt mở lớn, chiếc miệng móm xọm há hốc.

“Phải, bà ấy bảo tôi phải tìm mọi cách để thư này tới tay ông. Mọi cách.” Chàng nuốt nước bọt. “Lúc ấy chúng tôi đang ở trong vùng Kinh Tế Mới chờ đợi chuyến bay và bà biết rằng bà không thể nào sang đây được. Căn bệnh của bà đang ở vào giai đoạn sau cùng. Tôi giữ lá thư này đã tám năm rồi đấy!”

Bây giờ ông già mới nhìn kỹ mặt chàng trai hơn. Rồi ông lại nhìn lên bức ảnh trên tường. Chàng trai có sống mũi cao và ánh mắt đăm chiêu của viên trung úy thủy quân lục chiến trong ảnh. Rồi ông cúi xuống tờ thư. Hàng chữ run lẩy bẩy. “Em đã biết anh không kịp đưa mẹ con em sang bên ấy được rồi. Em vẫn còn yêu anh. Con sẽ tìm gặp lại anh chỉ để nói rằng em vẫn còn yêu. Em phải nhờ người viết hộ đây. Tội cho anh, không đọc được nét chữ từ em.”

“Bạn trẻ là ...?” Ông già lạc giọng.

“Con của bà ấy. Bà ấy sinh tôi khi ông đã về nước chừng tám tháng.”

Đôi vai ông già oằn xuống.

“Nhưng còn một lá thư nữa, tôi cũng muốn trả lại cho ông.”

Chàng trai tiếp. “Lá thư ấy ông đã viết và nhờ bạn bè trao lại cho mẹ tôi mà không một lời từ giã.”

Chàng trai phải mở lá thư vàng ố và đặt trước mặt ông già. Ông già không còn nhấc nổi cánh tay mình nữa. Thân hình ông như bị dán chặt trong lòng chiếc ghế dài. Một màn sương mỏng phủ trên cặp kính lão. “Tôi phải về nước gấp. Cám ơn em đã cho tôi những giây phút bình yên trong cuộc chiến tranh khốn nạn này. Hãy quên hết mọi chuyện đi em.”

“Ta ân hận...” Ông già nấc lên. “Ta ân hận vì đã viết những lời như vậy.”

“Nhưng mẹ tôi không hề hiểu ông đã viết gì. Sau này tôi biết rằng một người bạn của mẹ tôi đã dịch cho bà một nội dung hoàn toàn khác hẳn.” Chàng trai cười buồn. “Rằng ông sẽ trở lại rất sớm để đưa mẹ con tôi sang đây. Buồn cười quá. Mẹ tôi đã giữ lá thư bạc bẽo này như một bảo vật. Suốt hai mươi năm. Cho đến khi bà mất.”

“...Con!”

“Xong rồi! Tôi đã làm xong việc của tôi.”

“Con! Mọi người thân thiết của ta đã bỏ ta đi cả rồi. Giờ thì Thượng Đế đã xót thương mà sai phái con đến với ta. Con sẽ ở lại đây với ta chứ?”

“Không bao giờ!”

“Vậy thì ... Con đến với ta thường chứ? Con ở bao xa?”

“Rất xa. Không bao giờ. Tôi sẽ không gặp lại ông thêm một lần nào nữa.” Chàng trai đứng dậy.

 oOo

Ông già nhìn ra cửa sổ. Cái dáng cao gầy của chàng trai đã khuất sau giàn hoa giấy tím. Ông nghe tiếng cửa xe đóng sầm.

Buổi chiều sụp xám. Thành phố im vắng đến đỗi ông nghe tiếng gió triền miên. “Hừm, nước Mỹ muốn quên đi sự phản bội của nó trong quá khứ. Cũng như ta đã. Nhưng trong khi quốc gia, bằng những phương cách rất riêng, bịt miệng lương tâm của nó, nó đã đánh động thiên lương từng cá nhân. Phần của ta đấy ...” Ông già chua chát nghĩ.

Ông già ngồi như thế rất lâu. Bất động. Bóng tối chập choạng quanh ông. Ông sờ soạng đến bên lò sưởi và bật chốt gas. Ông nghe như có tiếng gió từ hoang mạc vọng về.

Rồi ông đến ngồi bên bàn viết. Ánh đèn đường vàng vọt hắt qua cửa sổ. Giàn hoa tím lay động mạnh. Hai tờ thư chờn vờn trước mặt. Ông thấy mình đang ngồi quạnh hiu trong công sự một tiền đồn cách đây nửa vòng trái đất. Ông lại nghe từng chuyến gió âm âm từ bên kia dãy Trường Sơn cao ngất.

Bây giờ khắp gian phòng đã đầy ắp mùi hơi đốt hăng hắc. “Có lẽ đã đủ,” ông già lẩm bẩm. Rồi ông chậm rãi đánh một que diêm. Một vòm sáng bùng lên. Rực rỡ. Ông già thấy mình đang lừng lững đi vào hoang mạc trong trang phục của một gã chăn bò. Rồi an nhiên ngồi thả khói thuốc bên một cội xương rồng.

Nguyên Nhi
2.1998