SỐ 30 - THÁNG 4 NĂM 2006

 

Thư Tòa Soạn

Thơ

Vứt bỏ
24 Hà Phú Đức
Hương Ngọc Lan
24
Phạm Hồng Ân
Tháng tư tôi gửi

23
Hoàng Du Thụy
Em là bóng nguyệt
21
Huỳnh Kim Khanh
Mẹ ơi biển gọi
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Buồn trốn trong thơ
18
Kim Thành
Nhớ bạn say
17Maihoado

Truyện ngắn, Tâm bút

Hồn tàu
13
Hoàng Du Thụy

Một chân trời mới
13
Nguyễn Hồng Quang
Kim Thành-Người sương phụ làm thơ
14
Phan Thái Yên

Em có nghe gió nói gì không
14
Võ thị Đồng Minh
Ngọn Thái Sơn
7Cỏ Biển

Gió sa mạc

15
Nguyên Nhi
Như giọt sương khuya
15Hoàng Mai Phi
Phiếm luận văn chương (2)
8Huỳnh Kim Khanh
Còn đó bóng hình
8Song Thao
Nhớ
8Vũ Hoàng Thư

Văn học, biên khảo

Nhà Trần khởi nghiệp (4)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành
4Ngô Văn Xuân
Bông Dã Quỳ
4Xuân Phương
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 17

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Thằng Nèm
2 Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 24
1 Huỳnh Kim Khanh


 

NGỌN THÁI SƠN

 

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"

Chỉ là hai câu ca dao đơn giản giữa hàng trăm ngàn câu trong kho tàng văn chương truyền khẩu. Khi mới bắt đầu vào độ tuổi nhận biết của một đứa trẻ tôi đã được nghe câu này, từ cửa miệng của tất cả những người lớn tuổi, của bầy học trò ê a bài học vỡ lòng mỗi khi nói về công lao của cha mẹ. Hồi đó tôi có một nhầm lẫn hết sức tức cười vì lần nào cũng hay đọc là " Nghĩa mẹ như nước trong " buồng " chảy ra ", trí tưởng tượng non nớt trẻ thơ bắt tôi chạy vào gian buồng nhà tìm tòi lục lạo, đầu óc ngây ngô cứ thắc mắc tại sao không thấy có nước chảy ra !

Lớn lên tôi lại thêm một tật, mỗi khi cầm tờ báo đọc hết tin tức trang trong, trang ngoài thế nào tôi cũng phí thì giờ ngồi tỉ mẩn đọc hết những cột quảng cáo, kể cả dòng chung vui chia buồn với hàng tên dài dằng dặc, ghi rõ địa vị của tất cả những ai liên quan mà người cậy đăng như có đôi chút hãnh diện ngầm trong đó. Rất nhiều lần tôi để lòng mình chùng xuống, buồn bã và ngậm ngùi thương tiếc với dòng cáo phó ngắn ngủi của thân nhân những người lính trẻ trong các trận chiến ác liệt, cho dù không hề quen biết họ. Và cũng rất nhiều lần tôi không nén xuýt xoa khi đọc tên một cụ ông, cụ bà được nhiều phúc đức qua đời với tuổi thọ cao, kèm theo một lô lốc tên họ, chức tước danh vọng của con cái, cháu, chắt.

Nhiều năm trôi qua, tuy thời cuộc biến đổi tôi vẫn không mất thói quen đó, cho dẫu cõi lòng bây giờ đã tỉnh lặng không còn sôi nổi và dễ dàng xúc động như xưa. Vậy mà kể từ khi ra hải ngoại có một khung quảng cáo tôi không hề đọc đến, thậm chí lật thật nhanh, lướt qua trang khác ngay tức khắc tựa hồ như tôi bị phỏng tay, khi thoáng thấy hàng chữ đầu tiên quảng cáo về nghĩa trang, nhà quàn được in đậm trên trang báo, tôi tránh xa chúng như một điều kiêng kỵ bởi lẽ khi người ta sống trong hạnh phúc càng hay lo sợ vu vơ. Có thể vì những mất mát, chia ly sau ngày mất nước giống như vết sẹo in dấu trong tâm hồn khiến hình thành một thói quen, điều kiện ắt có và đủ để trở nên một thứ phản xạ vô điều kiện ở nơi tôi. 

oOo

Tiếng chuông điện thoại vang lên giữa đêm rồi chợt tắt, chắc đã có người bắt máy. Chưa kịp dỗ lại giấc thì nghe tiếng gõ cửa phòng và tiếng gọi của đứa con tôi : "Má ! Có điện thoại của Việt Nam !!" Lập cập tuột xuống giường, hai chân tôi như cóng lại. Không cần suy nghĩ tôi biết ngay có chuyện chẳng lành xảy ra bởi mấy ngày trước tôi đã được biết tình trạng sức khỏe của ba tôi bỗng trở xấu. Giọng bệu bạo của đứa em gái Út thuật lại lời Bác sĩ cho biết ba tôi chỉ có thể cầm cự chút tàn hơi khoảng chừng hai hôm nữa thôi. Lần về thăm nhà mới đây chưa đầy hai tháng tuy yếu sức, trí nhớ kém cỏi và không thể tự mình đi lại nhưng tôi vẫn trông thấy nét khỏe khoắn ở nơi ông, đứa em gái chăm sóc cho ba tôi hàng ngày còn nói diễu với chúng tôi :

- Ba coi vậy mà còn thọ ít lắm cũng vài năm nữa à. Ba ăn uống còn được lắm, tại ở nhà không dám cho ba ăn thêm nhiều vì sợ lên " tăng xông " thôi.

Thật vậy, ngày đầu tiên mới về, không ngũ được nên tôi thức rất sớm. Trời chưa rạng sáng tôi đã ngồi dậy rón rén bước dần về phía cửa cái bỗng nghe tiếng ba tôi kêu : " Ai đó, có gì ăn không ? Đói bụng rồi " chứng tỏ giác quan ba tôi vẫn rất tinh tường, đâu ai ngờ lại nhanh chóng suy sụp như vậy. Tôi vẫn thường hay nghe nói : < Tuổi già như trái chín trên cây, bất chợt thình lình một cơn gió lay động nhẹ cũng làm cho trái rụng !! > bây giờ tôi mới cảm được điều này. Bàn tay tôi bấm điện thoại gọi các nơi một cách máy móc thông báo tình hình cho những đứa em khác. Chúng tôi ai nấy tự tìm những phương tiện nhanh nhất để về gặp cha lần cuối.

Cũng giống như nhiều trường hợp " tâm linh tương thông " khác, giờ khắc lìa đời của ba tôi tương ứng với giác quan nhận biết của chị em tôi. Đứa đang ngồi trên phi cơ bỗng hắt hơi liên tục, chảy nước mắt mũi cả giờ. Đứa khác thì mi mắt bỗng giật lia lịa không ngừng, cõi lòng xốn xang, thiểu não, bất chợt nghĩ đến những điều không muốn nghĩ tới. Tôi đâu ngờ lần về thăm đó cũng là lần cuối cùng tôi trò chuyện với ba tôi. Tôi thấy tiếng nói so với nhiều năm về trước có phần run rẩy nhưng giọng vẫn còn rõ ràng.Vuốt ve bàn tay xương xẩu đầy nếp nhăn trổ đồi mồi, tôi hỏi ba còn nhớ đến con không ?. Ba tôi cười thật hiền nói : - Ai nghe giọng quen quen ?
Bởi mắt đã lòa không còn nhìn rõ mọi vật, tôi phải nhắc lại nhiều thứ ba mới nhớ ra :

- À, Con là Kim Y hả ? Ừ là em của Kim An đó mà.

Rồi ba miên man nói tiếp :

- Ba còn nhớ mà, hai chị em nó giờ ở đâu mần ăn ra sao ? Lâu quá rồi không thấy nó về thăm.

Tôi cãi :

- Đâu có đâu ba, em con về thăm ba hoài mà, chỉ có con là ít về thăm ba thôi. Bây giờ con về thăm ba nè. Cả gia đình con về thăm ba đây, có cả cháu cố của ba nữa đó.

Rồi tôi gợi lại những kỷ niệm, những nơi chốn cũ rích bởi vì tôi biết những người gần đất xa trời như ba tôi chỉ còn nhớ được chuyện xa xưa. Khi nhắc nhở từng cái tên của con của cháu, tôi muốn quay ngược cuộn phim dĩ vãng của gia đình mong cho ba tôi nhớ lại mọi điều. Kể lể luôn những thành đạt hiện tại của các con ba ở nước ngoài dù chỉ để tìm thấy nụ cười. Dĩ nhiên là tôi giấu hết những sự thật đau lòng về bịnh tình của người chị lớn nhất.

Ngồi dựa lưng vào chiếc trường kỷ không biết ba tôi có nhớ được gì chăng, giống như vừa trở về từ cõi xa xôi mơ hồ đâu đó, giờ sực tỉnh nên cười hớn hở luôn miệng thốt lên câu :

- Tốt quá, tốt vậy ha ! Khá dữ vậy à.

Mấy đứa em tôi đứng quanh mỗi đứa một câu và cười hi hí với nhau :

- Chị biết không, Ba nói hoài ba còn mấy căn nhà, còn ruộng đất ở dưới quê ba biểu đưa ba về quê để ba chia gia tài kìa.

Tôi gật đầu xác nhận :

- Chuyện ba nói là có thiệt đó, hồi nhỏ ba kể cho tụi chị nghe hoài, tại vì vùng đất đó mất an ninh nên sau này không ai dám về và coi như bỏ luôn, tại mấy đứa không biết thôi.

Bọn nhỏ trố mắt ngạc nhiên :

- Ủa vậy hả, tụi em lại tưởng ba mình già lẫn nên nói sảng, chắc tại tụi em nhỏ quá nên không biết chuyện này. Hèn gì có lần mấy người bà con dưới quê xúi ba về đòi đất, đòi nhà gì đó mà ba không chịu. Ba nói lâu quá rồi, bốn năm chục năm nay người ta đã làm chủ, bây giờ có quyền gì mà đòi lại.!

Nhỏ em thứ năm là người chăm sóc hàng ngày khều tay ba tôi kêu :

- Ba nè, Có mấy bà bồ nhí tới kiếm ba kìa, họ nói ba còn mấy đứa con với họ kìa

Nói xong cả đám em xúm lại cười rần rần trong khi ba tôi xua tay phản đối :

- Bậy nè, làm gì có chuyện đó.
- Vậy là bây giờ là lúc ba tỉnh táo, chứ thường là ba chỉ nhắc chuyện đời xưa thôi. Nhiều khi ba kể tên ai lạ hoắc rồi cho tụi em biết là bà con, còn tên con cháu trong nhà hiện tại thì ba quên hết.

Đứa em kể tiếp :

- Chị biết không, mấy năm về trước lúc ba còn mạnh khỏe, còn đi đứng được một mình hễ mỗi đầu tháng là ba đòi tiền trèo trẹo, nói là tiền của các con ở nước ngoài gởi về cho, không đưa là không được dù ba đâu có việc gì phải tiêu xài. Tụi em nom theo té ra là mấy con mẹ bán vé số nó vây quanh ve vuốt ông già, dụ ba mua cả cọc toàn là vé số xổ rồi.
- Thì hồi đó khi chị nghe điện thoại mấy đứa kể chuyện chị có nói là thôi kệ cứ đưa tiền theo ý ba muốn cho ba vui đi. Cứ coi như hồi kiếp trước ba có mắc nợ bây giờ phải trả, còn nếu không phải thì coi như kiếp này ba cho họ vay, giống như mình bỏ tiền mua vui cho ba, vậy thôi,

Nhỏ em thứ bảy tức tối kể tiếp :

- Trời ơi, chị đâu biết mấy con quỷ đó nó coi ba như cái mỏ tiền, mới hai ba năm nay ba yếu quá không đi xa một mình được thôi, chứ hồi đầu tụi nó còn kéo tới đứng núp sau gốc me bên kia đường, thấy ba ngồi trước nhà là ngoắc ba qua bển, bị tụi em thấy được nên chạy qua chỉ mặt chửi cho một trận.

Tôi bật cười to :

- Ha ha, đâu phải một mình ba của mình bị dụ dỗ đâu. Thời đại bây giờ đàn bà con gái ở Việt nam chỉ tìm mấy ông già gần đất xa trời có con cái ở Mỹ, ở Tây là dễ kiếm tiền nhất mà, tại ba mình hay khoe có nhiều phước đức, con cái có hiếu ở nước ngoài gởi tiền về cho nên họ đánh hơi bu theo ba thôi. Ở bển chị còn nghe nhiều thứ chuyện động trời ngoài mấy ông Việt kiều già trốn vợ, còn mấy lão ông tỷ phú chân đất không nên nết ôm tiền bán ruộng, tiền hưu tiền già dành dụm về bao bồ nhí đáng tuổi cháu nội, cháu ngoại khiến mấy bà vợ giờ trở thành quá " date " tức nghẹn họng luôn nữa kìa.

Những ngày ở lại, chăm sóc cho ba tôi rồi cũng trôi qua thật nhanh, thật ngắn ngủi.
Nhiều lần dìu ba đi tắm rửa, đắp mền thay áo tôi đều nghe ba nói : " Bà ơi, tôi thương bà lắm," Người xưa viết rằng, lời nói của người trước khi lâm chung mới là lời nói thật lòng. Có lẽ ba tưởng tôi lúc ấy là má nên từ trong tâm khảm tự động bật thốt lên lời. Trước mắt tôi là hình ảnh một ông lão râu tóc bạc phơ, gầy còm, da dẻ nhăn nheo xương xẩu, đôi mắt đã lòa chẳng trông thấy người bên cạnh. Hình ảnh hiện tại khiến tôi ngậm ngùi cho một kiếp người và nhớ lại thời xa xưa " vàng son " của ba tôi.

Không như các em sinh ra khi ba tôi hơi luống tuổi, tôi có may mắn là con gái thứ sau bà chị lớn đầu lòng, thế nên những hình ảnh thời trai trẻ của ba tôi đều có biết. Nói theo cách nói hồi ấy ba tôi là người khá " bảnh trai ". Sở dĩ tôi còn nhớ nhiều là tại lúc nhỏ ba hay kể về thời gian ba tôi cầm tay lái coi sóc những chiếc xe đò chạy đường liên tỉnh lộ cho dòng họ. Nhiều cô bạn hàng quen biết cứ đợi cho chuyến xe nào có mặt ba tôi họ mới chịu đi cho dù có hôm ba tôi không cầm lái mà chỉ đi theo thu tiền. Có nhiều cô khi lên xe là thót vào ngồi cạnh ba tôi, bất kể sự có mặt của má tôi. Cũng cả chục lần má tôi nghe lời xúi biểu của mấy bà bạn " đồng hội, đồng thuyền " đi bắt ghen ba tôi. Được cái là ba tôi không phải hạng " trăng hoa ong bướm " nên lần nào má tôi cũng về tay không, về sau khi chúng tôi lớn lên nhiều lúc ba tôi vui chuyện hay nhắc đến tật ghen bóng, ghen gió của má tôi :

- Mấy đứa nghĩ coi, người ta là bạn hàng, họ muốn chờ xe ba để đi là tại ba vui vẻ, tử tế. Lên xe người ta muốn ngồi ở đâu là ý của họ, má tụi bay thấy lần nào họ ngồi cạnh ba là ghen dữ dội, đến nỗi chuyến nào tới phiên xe đi nằm đêm (*) ở Chợ Lớn cũng đi theo tò tò, còn dắt theo hai đứa con nữa chứ.

Má tôi không kém, trả đũa ngay :

- Hứ, tui mà không đi theo làm kỳ đà cản mũi mấy con ngựa bà đó thì giờ này dám ông cũng hai ba dòng con chứ bộ tốt lành như bây giờ sao !.

Ba tôi cười cầu tài nói :

- Thì ăn thua ở tui, tui không chịu họ thì thôi, làm sao xảy ra chuyện đó được.

oOo

 Cho đến bây giờ đã gần năm mươi năm trôi qua, tôi vẫn còn giữ trong trí hình ảnh ngày đó ba là một nhà thể tháo gia lành mạnh. Cứ mỗi cuối tuần với quần sọt, áo thun cỡi chiếc xe đạp có đòn ngang, ở đó ba đặt tôi ngồi vắt vẻo trên cái yên bằng sắt gắn thêm, phía sau " boọc ba ga " là bà chị tôi ngồi đong đưa chân hai bên. Với đôi giày đinh máng trước ghi đông, ba chở hai chị em chạy qua nhiều con phố rợp bóng cây đến một sân vận động có con đường trải đất đỏ ôm vòng bãi cỏ xanh, ở đó chúng tôi ngồi trên khán đài vắng người nhâm nhi chùm mía ghim hay gói đậu phọng rang để xem ba tôi chạy nhiều vòng trước khi dợt banh bởi khi chúng tôi chưa ra đời ba tôi đã là một cầu thủ có hạng trong các đội banh ở địa phương.

Những lần tranh giải hoặc đá giao hữu tại nơi gần nhà như sân banh ở vườn " Bờ rô " là chắc chắn chị em chúng tôi được ba cho đi theo. Lúc đó không thèm ngồi trên khán đài với mấy thầy đồng nghiệp trong sở của ba, chúng tôi chạy xuống con đường đất quanh sân, dõi mắt tìm ba trong đám đông cầu thủ đang rượt theo tranh giành trái banh, để khi ba tôi chạy theo trái banh đến gần thì mừng rỡ nhẩy cẫng lên gọi ba ỏm tỏi.

Giống như đang cầm chùm chìa khóa dĩ vãng, tôi mở ra từng cánh cửa thửơ thiếu thời trong tâm não của mình. Nơi đó ngày mồng một Tết, ba ngồi trên bộ ván, mặc bộ đồ lụa Lèo trắng, thời trang quen thuộc của những công tử miệt vườn vào những năm vừa lập lại hòa bình ở miền Nam, chị em chúng tôi xúm xít quanh ba chơi bầu cua cá cọp. Mồng ba Tết ba dẫn hai chị em đi Chợ Lớn xem múa lân. Phố xá vẫn còn đóng cửa im ỉm, ngoài đường xác pháo đỏ ối vương đầy. Hai chị em tôi thay phiên được ba công kênh ngồi lên vai chen vào đám đông, để xem màn múa võ hoặc ông Địa chọc cười trong khi con Lân đang chót vót trên cao giật cây cải xà lách có buộc phong bao lì xì đỏ chót.
Cũng giống như bao nhiêu gia đình công chức khác, chúng tôi sống đời êm ả và bình dị giữa thành phố Saigon. Buổi sáng trời còn mờ sương, tôi hay giành phần ra tiệm bánh bánh mì ở đường Bonard sau này là Lê Lợi mua về cho cả nhà ăn. Điểm tâm của ba luôn luôn có ly cà phê khác với chúng tôi là ly ovaltine thơm phức. Tôi vẫn còn nhớ những ngày Lễ Quốc Khánh 26/10 trân trọng với những cổng chào trang trí bằng lá cây đủng đỉnh và đèn hoa trước cửa công sở. Ba dẫn đàn con ra chợ Saigon để xem đoàn xe hoa với biểu tượng chim bồ câu hòa bình diễn hành từ đường Công Lý đỗ xuống. Ba mua một chùm bong bóng bay đủ màu và nhiều gói bắp rang thơm lừng phát cho mỗi đứa. Buổi tối vui vẻ khi về đến nhà vẫn chưa hết, chúng tôi ôm chiếu cùng ba má và mấy gia đình trong cư xá qua khu đất trống đầy cỏ của khám lớn khi xưa nằm chờ xem bắn pháo bông, say sưa với màu sắc và làn gió mát rượi ru chúng tôi thiếp ngũ từ lúc nào cũng chẳng biết, đến nỗi ba phải bồng từng đứa về nhà.

Thời cuộc biến đổi, đồng lương công chức không còn đủ để gia đình chúng tôi sống thoải mái như xưa. Khi có thêm nhiều em ra đời thì thời kỳ sung sướng của gia đình đã không còn nữa, hết rồi những ngày lãnh lương ba dẫn chúng tôi đi Chợ Cũ ăn cơm thố, đi Chợ Lớn ăn tửu lầu. Lâu thật lâu ba mới dẫn cả gia đình đi ăn mì Cây nhãn là món chị em tôi ưa thích, cũng không còn thường xuyên mỗi tối chúng tôi đòi ba mua mỗi đứa một ly sữa đậu nành thơm phức với cái bánh chao béo ngậy. Tội nghiệp các em tôi chúng ra đời vào thời điểm đất nước không còn cảnh bình yên và gia đình không còn sung túc. Ba tôi ngoài thời gian ở công sở phải thức khuya, dậy sớm phụ với má tôi mua hàng về giao cho mối lái kiếm thêm tiền nuôi đàn con mười đứa. Còn nhớ khoảng thời gian đầu gia đình tôi phải dọn về khu ngoại ô xa thành phố không điện, không nước. Gặp chị người làm quá lười biếng, buổi trưa về ăn cơm, ba tôi tự động xách từng thùng nước giếng đổ đầy lu cho các con dùng mà chẳng có một lời sai biểu hay rầy rà đến chị ta. Thói quen trưởng giả còn sót lại ở ba lúc đó chỉ là phải có một món ăn ngọt trước khi trở lại sở làm sau giấc ngủ trưa. Lần nào tôi cũng hãnh diện giành phần chạy thật nhanh vào xóm mua khi thì chén chè, lúc là miếng cốm nếp trước khi ba trở dậy. Lớn lên đi học tôi thường nghe người ta nói " mưa từ trời rơi xuống " hay " nước mắt chỉ chảy xuôi ", để nói về công lao của cha mẹ thà chịu đói, lạnh nhường ấm áp, no bụng cho con mình không hề nghĩ đến ngày được báo đáp. Thấy ba cực khổ, má nấu thêm chút thức ăn ngon dành phần riêng cho ông, nhưng lần nào ba cũng kêu tất cả các con cùng ăn, bầy con ngây thơ cứ nhè món ngon chọc đũa giành hết, ba không ăn chỉ ngồi nhìn các con cười rồi nói với má : " nhìn các con xúm xít ăn uống lòng tôi thấy sung sướng, hạnh phúc hơn là chính tôi ăn ".

Không ai chọn được cửa để mình sinh ra, nhưng chị em chúng tôi thật diễm phúc có được một người cha như ba. Suốt cả đời tôi chẳng hề thấy ba tôi đánh đòn hay quát mắng nặng lời với các con, cả trai lẫn gái. Trong khi đó không ít mấy đứa con nít hàng xóm thường xuyên bị ba chúng đánh đòn, nhất là mấy thằng con trai, mỗi lần thấy ba chúng rút sợi dây lưng da ra đánh là tôi bụm mắt không dám nhìn, vậy mà bọn nó vẫn không sợ, đòn roi khiến chúng lì thêm. Ba tôi lấy đời sống hiền lành gương mẫu của mình để dạy con cái, lấy chuyện đời xưa để khuyên con. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, đến bữa cơm mấy đứa em trai nghịch ngồi ăn không tề chỉnh là ba nhắc chuyện ngày xưa ba ngồi ăn cơm kiểu như vậy sẽ bị ông nội đánh một cái văng xa ba thước liền. Đứa em trai nào lì lợm nói không nghe ba chỉ nói rằng : " Đừng để ba liệt vào hàng " vĩnh bất tự dụng " có nghĩa là gia đình sẽ vĩnh viễn không sử dụng, vậy mà các em tôi nhớ hoài câu này. Với mấy đứa con gái để khuyên chúng tôi siêng học, ba chỉ nhẹ nhàng hướng vào hình ảnh mấy cô thư ký cùng sở rồi nói : " Còn nhỏ cố học có bằng cấp sau này giống mấy cô đây làm việc chỉ cần cầm cây viết, nhẹ nhàng. Nếu không học lớn lên dốt nát, làm phu quét rác hay gánh cái gánh hàng trên vai đi ngoài mưa nắng cực khổ, vậy các con muốn chọn cái nào ? "

Miền quê nơi ba lớn lên là vùng đất cụ Đồ Chiểu mở trường dạy học, tinh thần Nho Giáo và đạo lý Khổng Mạnh bàng bạc trong nhân gian, có lẽ vì vậy nhân sinh quan của ba tôi ảnh hưởng phần nào. Lúc nào cũng đề cập trung hiếu tiết nghĩa với đám con trai. Còn con gái thì phải công ngôn dung hạnh, bên cạnh câu xuất giá tòng phu là kèm câu nữ sanh ngoại tộc. Vậy mà khi tôi lấy chồng lúc đưa dâu ba tôi lại rơi nước mắt khóc thương cho tôi phải lìa xa cha mẹ anh chị em ở nhà người lạ, khiến họ hàng có mặt cũng ngậm ngùi theo. Ba tôi sống hiền từ không những chỉ với gia đình mà còn với tất cả mọi người chung quanh. Từ nhỏ cho đến lớn tôi không hề thấy ba tôi cãi vã to tiếng với hàng xóm hay giận hờn ai, ba cư xử với bạn bè hết lòng không hề so đo, tranh giành hay tính toán, vụ lợi khi kết thân với ai. Vì cá tính như thế nên ba luôn luôn nhận phần thiệt thòi khiến má tôi luôn càm ràm là vô phúc bởi lúc nào cũng phải lo lắng thay cho ông.Cuộc đời của ba là tấm gương về lòng nhân hậu và tín nghĩa cho các con soi theo. Cũng có lúc ba tôi biết được một người bạn xấu lợi dụng lòng tốt của mình ông chỉ cười coi như nhờ đó khám phá ra khía cạnh thật của họ và để họ tự thẹn mà thôi, nhưng thói đời hiếm có người như vậy, bù lại ba tôi cũng có rất nhiều người tử tế quý mến, giúp đỡ vì thấy ông quá hiền lành, chân thật.

Không là công chức cao cấp nên ba tôi thoát được cảnh tù tội. Tuy đã nói rằng " Nữ sanh ngoại tộc " vậy mà sau ngày mất nước, thấy tình cảnh con cháu mình khốn khó ba tôi vẫn dang tay cưu mang đem thêm gánh nặng chất trên đôi vai của mình không hề than thở. Tôi vẫn còn nhớ như in dáng còm cõi của ba nửa đêm giúp tôi mang đồ đạc ra bến xe thăm nuôi chồng. Ba phải xin việc làm kiếm chút gạo tiêu chuẩn, đồng lương ít ỏi để nuôi sống bầy con cháu dù tuổi đã ngót sáu mươi, ba cũng làm tài xế chở tôi vượt đường xa lên tận chốn rừng thiêng nước độc thăm chồng cho tôi tròn câu " xuất giá tòng phu ". Ngày chị em tôi còn là những đứa con gái mới lớn, lúc nào ba cũng đích thân đưa đón cẩn thận mỗi khi có việc đi đâu vào ban đêm. Những ngày vắng chồng, bên cạnh ba trong gia đình tôi không còn thấy lẻ loi, đơn độc không chỗ tựa nương trong khoảng tối đen, cùng cực của xã hội.

Rồi cũng đến lúc chồng tôi được thả, thân phận người tù sau cuộc chiến chắc hẳn quá thê thảm dưới mắt ba tôi. Không biết ba tôi đã nhìn thấy điều gì thay đổi ở tôi, hoặc trong cung cách cư xử hàng ngày với chồng, hay là ba chỉ lo xa ? Nhiều lần ba nói với tôi :

- Ba ghét nhất cái thói lấn lướt, ăn hiếp chồng. Con là con nhà có giáo dục không được có cái thói xấu đó, cho dù vào thời nào đi nữa, ba cũng không chấp nhận.

Có lẽ ba tôi đã nhìn được sự thay ngôi đỗi chủ của nhiều gia đình sĩ quan sau khi chồng ra tù nên ba luôn luôn nhắc nhở về đạo lý tam tòng tứ đức với tôi.

Ngày gia đình tôi rời đất nước, tôi thấy dáng ngần ngại phân vân nửa muốn nói, nửa lại không, bởi cái thuyết " tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu " vẫn còn đè nặng trong tâm trí của ba. Cuối cùng ông mới nghẹn ngào nói :

- Hay là tụi con ở lại đừng đi ! Ba thấy bây giờ chính sách cũng có cởi mở đôi chút cho mọi người làm ăn lại được rồi.

Con ra đi đến chốn xứ lạ quê người đơn độc, có việc gì biết lấy ai nâng đỡ, cậy nương.
Lúc ấy tôi mới nhận ra rằng, cho dù tôi đã có chồng con, có lớn lên hay thậm chí có già đi bao nhiêu tuổi, dưới mắt ba, tôi vẫn là đứa con gái thưở nào ba gìn giữ, đưa đón trước cạm bẫy, giông bão cuộc đời.

oOo

Tôi trở về chỉ còn nhìn thấy mặt cha qua làn kính đậy trên quan tài. Trong đó ba tôi nằm nhắm mắt ngũ giấc ngàn thu. Cho dù đã xem hàng bao nhiêu lần phim ảnh, đọc hàng trăm ngàn bài viết diễn tả nỗi đau buồn phải mất cha, tôi đoan chắc sẽ không ai biết được cảm giác mất mát, đau đớn thật sự nếu chưa từng nếm trải. Ngọn núi Thái sơn nghe nói đâu đó ở bên Trung Hoa, cũng chưa chắc là có ngọn núi đó thật sự có thể đó chỉ là một vật thể tượng trưng vô hạn, vô hình trong thế giới hữu hình. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi người sẽ thấy được ngọn núi Thái Sơn to bao nhiêu, cao như thế nào trong tâm tưởng của mình đối với công cha. Có nhiều bài viết để đời ca tụng tình mẫu tử, nhưng để nói về cha thì hình như không có hoặc là quá ít và không đủ, ngoài một câu ca dao ví công cha như núi Thái Sơn mà thôi.

Đám tang ba tôi được tổ chức trọng thể đầy nghi lễ. Qua làn hương khói tôi mường tượng hình ảnh ba tôi đang ngồi mỉm miệng cười một cách hiền từ, thỏa mãn khi thấy con cháu tề tựu đông đủ, đó là thói quen của ba. Nhìn đứa em trai xới chén cơm, rót ly rượu dâng lên cho ba tôi ở trước quan tài đang rưng rưng nước mắt, đám con cháu khăn tang trắng, lớp lóp quỳ lạy khiến tôi se thắt lòng, lã chã tuôn rơi giọt lệ khi nhớ lại những tháng ngày hạnh phúc được sống bên cha. Hồi đó tôi hay nói với các em về suy nghĩ của tôi. Lúc cha mẹ còn sống và còn mạnh khỏe thì đừng phạm điều quá đáng để sau này khi cha mẹ mất đi mình sẽ phải có điều ân hận, dày vò tâm khảm. Cũng như khi còn sống thì không lo chăm sóc nuôi dưỡng tận lực, khi chết lại bày ra cúng kiếng vô ích, chỉ dối người, dối đời. Những hình ảnh về phút giây cuối cùng của ba tôi sẽ đọng lại, mãi ghi khắc trong tâm tưởng của chị em chúng tôi không bao giờ phai nhạt. Có lẽ ba tôi rất ấm lòng trong những ngày cuối đời khi thấy bầy con vây quanh chăm sóc tận tình, thay phiên nhau lắng nghe từng hơi thở trước lúc ra đi không để mình cô độc lạnh lẽo. Đôi mắt ông thực sự khép lại khi đứa con thứ mười vượt ngàn trùng về tới giơ bàn tay vuốt mắt cha với lời thì thầm ba hãy yên giấc. Ba tôi đã đi hết con đường buồn vui hữu hạn của đời mình, bây giờ nhẹ nhàng thanh thản về lại quê cũ, bên cạnh phần mộ tổ tiên cha mẹ như mong mỏi khi còn sinh thời vì các con của ba đã làm đủ mọi điều như ba ao ước. Lúc sống ba đã vì các con thì khi chết hương hồn cũng vẫn vì các con của mình. Những trùng hợp xảy ra trong những ngày tang chế khiến tôi không tin cũng không được là đã có sự phù hộ của ba tôi trong đời sống của chúng tôi. Dù bây giờ ba đã vĩnh viễn lìa xa chúng tôi, ngủ yên trong lòng đất, ba vẫn là bóng núi Thái Sơn râm mát che chở cho đàn con trong gia đình mãi mãi không bao giờ mất.

Cỏ Biển.


(*) nằm đêm : chuyến xe cuối cùng từ địa phương lên thành phố buổi chiều phải đậu lại bến qua đêm để sáng sớm hôm sau là chuyến trở về đầu tiên trong ngày.