Trần Việt Bắc
Kỳ 6
Trần Tự Khánh thao túng triều đình
Lúc này, tháng giêng năm Giáp Tuất (1214), Trần Tự Khánh coi
như đã làm chủ kinh thành. Binh lực họ Trần hùng hậu nhưng lại
thiếu chính nghĩa để an dân. Dùng mũi giáo hay lưỡi kiếm kề cổ
người dân bắt họ phải theo mình, thì đầu môi chót lưỡi, người dân
phải nghe, nhưng tâm địa không ai phục. Trần Tự Khánh biết điều
này và ông ta muốn giả thần phục nhà Lý, dùng nhà Lý như một triều
đình bù nhìn để mặc tình thao túng. Vì thế ông ta bèn đi một nước
cờ mới: "Vài ngày sau Trần Tự Khánh cắt tóc sai người
dâng cho nhà vua và tâu rõ ý mình rằng là: "Tôi thấy bọn tiểu
nhơn ở cạnh vua, chúng che lấp ngăn cản các bậc trung lương, dân
tình thì uất ức không biết theo đâu mà chuyển đạt thấu lên trên.
Cho nên nhân đó mà (tôi tụ họp) người trong nước khởi binh đánh
bọn này, cắt bỏ gốc rể của sự hiểm họa để làm yên lòng dân. Và,
đến phận mệnh của vua tôi thì không dám một tí xúc phạm, lại há
có cái ý quá ỷ vào việc chăm đánh dẹp đó hay sao! Chẳng
ngờ là tôi đã khiến cho xa giá phải lẫn tránh chỗ khác. Tôi tự
lượng biết thân tôi. Tội tôi thật đáng muôn chết. Xin bệ hạ hãy
tạm nguôi cơn giận mà đưa xa giá trở về kinh sư". (ĐVSL). Sau
đó lại nhờ em của thái hậu là Đàm Kinh Bang chuẩn bị đón vua Huệ
Tông từ Lạng châu về kinh sư. Vua và quần thần muốn về lại kinh
thành, nhưng Doãn Tín Dực (1) tâu
với nhà vua và thái hậu : "Kẻ kia từ lâu đã chứa sẵn
cái lòng khác, nay muốn bày kế để bắt đấy thôi, chứ ai bảo đón
rước đó? Xin bệ hạ hãy nghĩ lại ba lần đã" (ĐVSL). Thái
hậu không chịu về lại kinh thành, nhà vua thấy mẹ mình không muốn
về nên muốn cùng thái hậu đi Cổ Lộng (Lạng Châu). Đàm Kinh Bang
và một số quan lại cố khuyên nhà vua nhưng vua và thái hậu không
nghe. Thế là hầu hết những quan lại cũng như những người hộ giá
bỏ trốn, chỉ còn lại quan "Nội thị Phán thủ là bọn Trần
Hân 30 người đều cùng với vua và Thái hậu lên thuyền đi về núi
Tam Trĩ (2) "( ĐVSL). Nhà
vua, thái hậu và đoàn tùy tùng đi Lạng châu nhưng thấy "thủy
thổ bất tiện" nên sau một tháng lại di chuyển sang Nam
Sách.
Thấy mưu mô của mình không thành và không nắm được nhà vua trong
tay, Trần Tự Khánh nổi giận bèn "triệu tập các bậc Vương
tước và trăm quan để nghị bàn về việc cải lập" (ĐVSL).
Tự Khánh sai người đi đón con của vua Anh Tôn (chú của vua Huệ
Tông) là Huệ Văn Vương lập làm vua. Đồng thời để tránh những phản
đối của phe ngoại thích; Tự Khánh ra lệnh bắt hết họ hàng của Đàm
thái hậu, kể cả Đàm Kinh bang mang về giam tại Mỹ Lộc ( căn cứ
địa của họ Trần). "Tháng 3, Huệ Văn Vương lên ngôi vua
ở điện Thiên An. Đổi niên hiệu là Càn Ninh và lấy hiệu là Nguyên
Vương" (ĐVSL).
Lời bàn của người viết:
Tuy Trần Tự Khánh dùng bạo lực để lập nên vua mới là Huệ Văn Vương,
nhưng ông vua này đã không được triều đình nhà Lý, toàn dân cũng
như các sử gia đời sau công nhận là một triều vua. Vì vua Huệ
Tông vẫn còn tại thế, không bị Tự Khánh kiềm toả lúc này và hiện
đang là vua chính thức của Đại Việt. Huệ Văn Vương, đối với cái
nhìn của các Nho gia thì ông này chỉ là một phản thần của triều
đại nhà Lý. Vì thế không thấy hai bộ chính sử là Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng như
các bộ sử khác ghi lại, ngoại trừ Đại Việt Sử Lược.
Lịch sử đã lập lại, Trần Tự Khánh đã hành động giống như Tào Tháo
thời Tam Quốc. Tào Tháo đã thao túng nhà Đông Hán là phế Hán Linh
Đế (Lưu Hoành, 156-189) và tự ý lập Lưu Hiệp lên làm Hiến Đế (189-
220). Tuy nhiên có một điểm hơi khác là Tào Tháo nắm cả Linh Đế
và Hiến Đế trong tay, còn Trần Tự Khánh chỉ nắm được Huệ Văn Vương
mà không nắm được Huệ Tông, vì thế Hán Hiến Đế được công nhận là
một ông vua thực thụ của Trung Quốc còn Huệ Văn Vương chỉ là một
ông vua "hờ", được dựng nên bởi một kẻ loạn tặc và hầu
như không được ai biết tới.
Trần Tự Khánh bị các bộ tướng phản.
Trần Tự Khánh công khai làm chuyện phản nghịch, các tướng dưới
quyền của Trần Tự Khánh chống lại ông ta. Tháng 4, cùng năm (1214),
Tại Cam Giá (3), Phan
Cụ phản, nhưng bị Tự Khánh bắt được và đem về giam ở Mỹ Lộc. Đỗ
Bị cũng là một viên tướng của Tự Khánh đóng ở Cam Giá làm phản,
Trần Tự Khánh sai Phan Lân đang đóng ở Siêu Loại (Bắc Ninh) đi
bắt Đỗ Bị, nhưng bị thua. Tự Khánh sai Lại Linh ở Nghĩa Trụ tới
cứu Phan Lân, Lại Linh cũng thua nữa. “Thái Tổ (NV: Trần Thừa)
thấy hai vị tướng quân đều thua bèn tự làm tướng đánh Đỗ Bị, nhưng
đánh không nổi phải rút lui” (ĐVSL).
Phan Lân và Lại Linh là hai tướng thuộc loại khá của Trần Tự Khánh,
Trần Thừa là anh của Tự Khánh, những người này đã có khá nhiều
kinh nghiệm chiến trường mà vẫn bị Đỗ Bị đánh bại, chứng tỏ Đỗ
Bị là một vị tướng có tài. Tuy nhiên sau cuộc binh biến này, không
thấy ĐVSL hay các sử liệu khác viết về Đỗ Bị.
Nguyễn Nộn lúc này là tướng dưới quyền của Trần Tự Khánh đang
cai quản Bắc Giang, vùng núi Đông Cứu (4) thuộc
Bắc Giang bị người ở vùng Hồng là Đoàn Nhuyễn mang quân tấn công "đốt
phá nhà cửa, giết hại sinh vật, bắt cướp gà, chó gần hết"
(ĐVSL). Nguyễn Nộn mang quân tới đánh Đoàn Nhuyễn, Nhuyễn bị Nộn
giết nhưng Nộn lại bị phục binh của họ Đoàn là Đoàn Nghi đánh bị
thương nên phải rút quân. Dù bị thương nhưng thấy các bộ tướng
của T ự Khánh nổi lên chống lại ông này, Nguyễn Nộn cũng muốn tìm
hướng đi riêng cho mình - trở thành bá chủ một cõi, nên Nguyễn
Nộn thông đồng với Nghĩa Tín Vương phản Trần Tự Khánh. Nghĩa Tín
Vương bị Tự Khánh bắt giết. Đại tướng của Khánh là "Phan
Lân muốn cất binh hưởng ứng thao Nguyễn Nộn. Âm mưu bị tiết lộ,
Trần Tự Khánh chém Phan Lân ở châu Đại Thông (5) "
(ĐVSL).
Trần Tự Khánh tàn phá Thăng Long
Trần Tự Khánh thấy các bộ tướng thay phiên nhau phản mình, bèn
như nổi khùng và có những hành động tồi tệ. Đối với Nguyễn Nộn,
Tự Khánh trả thù ông này một cách bỉ ổi, thấy "Nguyễn
Nộn ở Bắc Giang làm phản. Trần Tự Khánh nhân đó mà đi về nhà vợ
y"(6) (ĐVSL),
Tự Khánh đã đào sâu thêm cái hố thù hận không thể hàn gắn giữa
họ Trần và Nguyễn Nộn. Sau đó Tự Khánh , "đón Nguyễn
Vương (7) đi đến hành
cung Lị Nhân . Rồi sai Lại Linh đốt cung thất
ở kinh đô, gồm có 19 sở " (ĐVSL). Nguyễn Nộn
mang quân về kinh đô, "Tháng 6, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn
Nộn ở cung Thánh Nghi, rồi đốt cung ấy". (ĐVSL). Không
thấy tác giả của ĐVSL nó về kết qủa của trận giao tranh giữa Nguyễn
Nộn và Tự Khánh, nhưng người viết phỏng đoán là Nguyễn Nộn thua
trận và kéo quân về lại Bắc Giang.
Thấy lực lượng của Tự Khánh đã yếu vì bị các bộ tướng phản, vua
Huệ Tông và thái hậu tìm hậu thuẫn mới là Nguyễn Nộn, "phong
cho tướng quân ở đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước Hầu"
(ĐVSL), và dùng lực lượng của Nộn để bảo vệ triều đình về lại Thăng
Long. "Đến đại nội, bà Thái hậu ngầm hạ chiếu cho tướng
quân ở đạo Phù Nhạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu là Nguyễn Bát (8) để
giết đi. Nhưng rồi việc không xong chỉ đánh Bát bị thương"
(ĐVSL).
Trần Tự Khánh thấy vua và triều đình về lại Thăng Long, ông này
vẫn chưa bỏ ý định nắm toàn bộ triều đình nhà Lý trong tay, dù
đã lập vua mới là Huệ Văn Vương. "Trần Tự Khánh sai Đàm
Bật dâng thổ vật. …Sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang về kinh sư
tâu rõ rằng mình chẳng có ý gì khác. Nhà vua nghe Nguyễn Ngạnh
đến lại càng sợ mới sang nhà Doãn Bá ở ngõ Phiên Cầm. Nguyễn Ngạnh
đi rồi nhà vua mới trở về cung" (ĐVSL) . Không được như
ý nên "Trần Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết" (ĐVSL).
Vua và thái hậu cố gắng tập họp được quân để chống giữ, nhưng cũng
chẳng làm được gì, chỉ đủ sức tạm cản trở để chạy khỏi kinh thành
và không bị Trần Tự Khánh bắt. " Ngày đó Trần
Tự Khánh thả quân sĩ đi cướp lấy các tài vật trong phủ của nhà
vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung thất và nhà dân ở trong kinh
thành " (ĐVSL). Thế là gần như toàn
bộ thành Thăng Long bị Trần Tự Khánh phá hủy, đến độ khi "nhà
vua cùng với Thái hậu trở về kinh sư thấy cung thất bị
thiêu hủy hư hỏng hết cả mới trọ lại ở đền Chúa Thánh
bên cạnh cầu Thái Hòa. Nhà vua sai dựng ngôi nhà tranh
để ở " (ĐVSL) và hạ chiếu kêu gọi các đạo
quân khắp nơi đánh Trần Tự Khánh.
Lời bàn của người viết :
Qua những sử liệu trong ĐVSL thì toàn bộ cung thất nhà Lý tại Thăng
Long đã bị phá huỷ bởi Trần Tự Khánh. Bài chiếu của vua Huệ Tông
viết : "Trần Tự Khánh tụ tập đảng tặc hung bạo cướp
phá trộm cắp chốn kinh sư. Dưới nước, trên cạn đều có quân tiến
đánh làm phương hại đến tông miếu xã tắc mà trong mùa đông qua,
cái khí thế mạnh lại càng bốc mạnh hơn. Trần Tự Khánh đốc xuất
lũ buông tuồng tham tàn bạo ngược. Chúng cướp bóc tài vật của
ta. Chúng đốt sạch cung thất của ta. Cho đến nỗi các khu xóm
ở kinh thành hóa thành đống tro tàn" (ĐVSL) .
Mới đây (2003), phái đoàn khảo cổ Việt Nam khai quật cổ thành
Thăng Long và nói là tìm được hàng triệu di chỉ thời Lý, Trần.
Người viết lạm nghĩ rằng đây chỉ còn lại những di chỉ đời Trần
(từ đầu thế kỷ 13) và không còn di chỉ bắt đầu từ thời Lý (từ
đầu thế kỷ 11), nếu có thì có lẽ còn lại rất ít hoặc là những
di chỉ các đời trước (thành Đại La) đã bị chôn vùi dưới thành
Thăng Long đời Lý. Người viết đưa ra nhận xét thô thiển để bàn
luận, hầu được hiểu biết thêm.
Trần Tự Khánh biết là các đạo quân sắp đánh mình, bèn "phân
chia cho các tướng sĩ của y đóng quân ở Cửu Cao và Cửu Ông (9) để
ngăn ngừa Nguyễn Nộn. Rồi sai tướng quân ở Khoái Lộ là Nguyễn
Đường và Nguyễn Giai lại giữ dân đất ấy. Nguyễn Đường và Nguyễn
Giai lại cùng với Nguyễn Nộn thông đồng mưu sự với nhau để đánh
Trần Tự Khánh" (ĐVSL). Bị hai bộ tướng là Đường và
Giai phản, Tự Khánh "sai Lại Linh giữ An Duyên Phù Liệt
(10) " (ĐVSL).
Để lấy lòng Nguyễn Nộn và dùng ông này làm một viên tướng bảo
vệ mình, vua Cao Tông phong Nguyễn Nộn từ tước Hầu (phong Hầu
cho Nộn tháng 6, 1214) lên tước Vương (tháng 2, 1215). Sau đó
nhà vua sai quân (?) (11) đánh
Lại Linh, Lại Linh thua.
Thấy tướng của mình người thì phản, kẻ bị thua, Tự Khánh "giận
cá chém thớt" mang quân "đánh làng Khoái, san bằng
làng nầy" (ĐVSL).Rồi kéo quân đi đánh Nguyễn Nộn, Nguyễn
Đường, Nguyễn Giai. Đường và Giai thua trận, Tự Khánh chấp nhận
cho hai bộ tướng cũ của mình đầu hàng. Có lẽ Tự Khánh thấy là mình
đã mất khá nhiều bộ tướng nên không giết hai ông này, Nguyễn Đường
còn được Tự Khánh lấy lòng một cách đặc biệt: gả em gái là Trần
Tam Nương cho ông này.Tự Khánh sai các tướng của mình đắp lũy Hoàng,
An Giá, Công Chúa để phòng Nguyễn Nộn và các đạo quân khác. Nộn
mang quân tấn công Đường và Giai ở lũy An Lợi, Đường và Giai thất
trận, Trần Tự Khánh mang quân đi cứu và thắng được Nguyễn Nộn.
Nguyễn Nộn thua trận và kéo quân về Bắc Giang, thế là chung quanh
vua Huệ Tông không có một đội quân nào có thể bảo vệ được triều
đình. Nhà vua thấy nhà Lý đang từ từ lọt vào tay họ Trần, quá
chán nản. "Nhà vua bảo quần thần rằng: "Trẫm muốn
nhường ngôi, các khanh thấy như thế nào?" Quần thần đều ứa
lệ mà ngăn cản vua. Nhà vua không nghe mới cùng với Thái hậu lấy
dao cắt tóc" (ĐVSL). Không thấy ĐVSL nói là nhà vua
muốn nhường ngôi cho ai lúc này. Vua Huệ Tông không có con trai,
có được mấy người em (khác mẹ ) thì bị mẹ mình là thái hậu giết
chết. Vậy nhà vua muốn nhường ngôi cho Huệ Văn Vương, người mà
Trần Tự Khánh tự ý lập làm vua? Hay Ô Kim Hầu Lý Bát (sau này
được phong Hiển Tín Vương) hay một hoàng thân nào khác (12) ?
Đây là lần đầu vua Huệ Tông chán ngán thế sự và có ý muốn thí phát,
về sau này dưới sự kềm kẹp và uy hiếp của họ Trần (Thủ Độ) , nhà
vua đã nhường ngôi cho con gái và bỏ đi tu. Một lần nữa nhà vua
lại phải bôn đào: "Ngày ấy nhà vua từ dinh Thái Hòa đi
đến nhà của Trương Canh và Đặng Lão rồi cho xa giá trở về nhà của
nội Ký Ban là Đỗ An ở trong ngõ Chỉ Tác thuộc vùng cầu Tây Dương
(13) " (ĐVSL).
Trần Tự Khánh vẫn chưa giữ được vua Huệ Tông trong tay và hành
động càng lúc càng càn rỡ : "Mùa thu, tháng 7, Trần Tự
Khánh đốt cung Động Nhân. Nhà vua sai rước thần chủ Thái Hậu Linh
Nhân (14) về đền Chúc
Thánh" (ĐVSL). Rồi Tự Khánh mang quân đánh Đại Hoàng
(15), tại đây em rể của Khánh là bộ tướng Nguyễn Đường bị chết
đuối.
Trần Tự Khánh phò vua Huệ Tông.
Từ tháng 12, năm1211, khi Trần Tự Khánh kéo quân về kinh đô tới
tháng 7, năm 1215, gần 4 năm trời Trần Tự Khánh hoành hành ở Thăng
Long, tàn phá từ cung điện nhà Lý tới gia cư của người dân tại
đây, biết bao đau thương và tang tóc cho vùng này. Người viết không
thấy các bộ sử lớn (ĐVSKTT, VSKĐTGCM) của nước Việt ghi lại, nhưng
những hành vi của Trần Tự Khánh đã được ĐVSL chép lại rõ ràng (cách
hành văn cũng như sự sắp xếp có vẻ khó đọc theo lối văn cổ, người
viết chỉ xếp đặt lại theo thiển ý riêng).
Sau 4 tháng, từ tháng 7 tới tháng 11 năm 1215, không có những
biến chuyển lớn nào xảy ra, Trần Tự Khánh như "hồi tâm" (16) khi thấy vua Huệ Tông và thái hậu đã có vẻ như không muốn rời khỏi
kinh thành : "Tháng 11, Trần Tự Khánh đưa trả cái mũ
Bình Thiên. Tháng chạp, dựng ngôi điện bằng cỏ ở khu vườn nhà của
Đỗ An. … Tháng giêng, (1216) nhà vua cùng với Thái Hậu ngự
ở thảo điện (điện bằng cỏ-ND) để thị triều. Trần Tự Khánh trả lại
cái ghế bằng vàng" (ĐVSL).
Tháng giêng năm 1216, dù đang ở kinh đô, nhưng vua Huệ Tông cảm
thấy khó có thể bảo vệ ngôi vua của mình và hình nhưđã có ý định
muốn về với Trần Tự Khánh: "Nhà vua sai bắt kẻ trộm
ở ngõ Cơ Xá. Những người đi bắt ấy bị tướng quân là Đỗ Ất người
đất Cảo đánh. Nhà vua sai người đi triệu Đỗ Ất về. Ất không nghe
theo. Vua sai Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát đánh Ất. Rốt cuộc Ất
cũng không phục. Tháng 5, tướng quân Đỗ Nhuế người đất Cảo đánh
nhà vua. Ngày Mậu Thìn, vua đi thăm ngoài trại, nhân đó sai
sứ xin binh của Trần Tự Khánh để đánh Đỗ Nhuế. Đỗ Nhuế
chạy về với Nguyễn Nộn. Ngày Kỷ Tỵ, vua đày Liệt hầu Đỗ Nhuế, bắt
làm Cảo giáp" (ĐVSL)
Vua Huệ Tông cuối cùng đã phải về với phe Trần Tự Khánh (có lẽ
do cô em gái của Tự Khánh là Nguyên phi họ Trần dụ). "Ngày
Giáp Thìn, nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang
trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh (17).
Ngày hôm sau nhà vua gặp viên tướng của ngài là Vương Lê đem thuyền
đến đón. Lúc bấy giờ Thái hậu và con của nhà vua là Công chúa đều
lẫn tránh ở Ô Kim. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng
rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống, nhảy múa hoan hô nhà vua. Từ
đó nhà vua cùng với Trần Tự Khánh có ý cương quyết đánh Vương tước
ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát (18) cùng
người vùng Hồng là Đoàn Văn Lôi, và người Qui Hóa là Hà Cao v.v..."
(ĐVSL).
Vua Huệ Tông đi một nước cờ mới là dùng Trần Tự Khánh để dẹp các
lực lượng khác với hy vọng duy trì sự nghiệp của họ Lý. Nhà vua
dám quyết định vì không có thái hậu bên cạnh (bà này và hai công
chúa con vua Huệ Tông đang ở tại Bắc Giang). Lúc này, tại Thăng
Long và vùng kế cận có quân của Nguyễn Nộn, Nguyễn (Lý) Bát và
quân của Hà Cao (phiá tây bắc Thăng Long). Hiển Tín vương Lý Bát
đầu hàng, tuy nhiên chỉ 3 tháng sau ông này phản lại nhà vua và
Trần Tự Khánh.
Nguyễn Nộn ở Bắc Giang; thấy Trần Tự Khánh được vua Huệ Tông trong
tay, bèn hợp với Hà Cao kéo quân đánh chiếm vùng phía tây thành
Thăng Long "Thái hậu đến An Xưởng. Lúc bấy
giờ Nguyễn Nộn và Hà Cao lấy mệnh lệnh của Thái hậu đánh Từ Liêm.
Các ấp ở đó đều đánh đổ hết cả " (ĐVSL).
Thấy vua và triều đình nhà Lý thuận với mình "Trần Tự
Khánh dựng điện cỏ ở Tây Phù Liệt, khuôn mẫu của điện nhất nhất
đều bắt chước theo như ở trong đại nội" (19) (ĐVSL)
để vua Huệ Tông lâm triều, rồi "sai Trần Tự Khánh đánh
Nguyễn Nộn. Nhà vua hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường"
( ĐVSL). Sau đó nhà vua phong chức tước một loạt
cho họ Trần và các bộ tướng:
Trần Thừa được phong tước Liệt hầu, làm Nội thị phán thủ. Khi có
lễ tiệc lớn được cho ngồi dự tại điện Thiên An.
Trần Tự Khánh được phong chức Thái úy, những lúc triều bái không
phải xưng tên.
Trần Liễu con Trần Thừa làm Quan nội hầu.
Trần Hải con Trần Tự Khánh tước Vương.
Phùng Tá Chu là " quan văn " được phong tước Quan nội
hầu, chức Chiêu Thảo sứ.
Lại Linh được phong tước Quan nội hầu.
Họ Trần giúp vua Huệ Tông dẹp các loạn quân
Anh em họ Trần giờ đây đã thật sự trở thành các tướng của triều
đình nhà Lý . Tháng 4 năm 1217, Trần Thừa được cử đi đánh Nguyễn
Nộn, ông này chia quân ra làm 6 đạo tiến về phủ Từ Liêm để tấn
công Nguyễn Nộn. Được tin sắp bị tấn công, Nộn ra tay trước; bất
ngờ mang quân đánh Phạm Ân, vây Ân ở Lãnh Kinh và đánh úp Ải Đạo
(20). Trần Thừa kéo quân đến đánh, Nguyễn Nộn thua và rút về lại
Bắc Giang. Đoàn Thượng ở vùng Hồng biết là mình khó chống nổi
anh em họ Trần đang theo chiếu chỉ của vua Huệ Tông để dẹp loạn
lạc, nên Thượng ra hàng nhà Lý. Đoàn Thượng được vua Huệ Tông phong
tước Vương (đã được nhà vua phong tước Hầu khi Đoàn Thượng mang
quân về kinh thành lần trước). Thế là vùng Hồng được tạm yên.
Tháng 5 năm 1217, không phải lo về họ Đoàn ở vùng Hồng và Nguyễn
Nộn thì mới thua trận, "Trần Tự Khánh dẫn binh đánh Chân
Na thuộc Phong Châu (21) .
Xứ ấy đều bị đánh tan hoang cả. Ngày Đinh Mão, các thuộc ấp ở Phong
Châu đều ra hàng.Thái úy lại dẫn quân đánh Hiển Tín Vương Nguyễn
(Lý) Bát (22) và
hương ấp đều được bình yên" (ĐVSL). Nguyễn Nộn rút về
Bắc Giang, Hà Cao kéo quân về đóng ở Qui Hóa. Vậy là phía tây kinh
đô Thăng Long loạn lạc đã được dẹp yên, tuy nhiên để tránh sự nổi
loạn ở đây sau này, nhà vua phong "cho quan Minh tự tên
là Bạch Lãng, người Sơn Lão ở sách Ma Luân làm Liệt hầu"
(ĐVSL).
Nỗi lo lắng của anh em họ Trần là Nguyễn Nộn, ông này đã có mối
thù với Tự Khánh (đã được trình bày trong phần trước) nên không
thể hoà hay hàng, khi Trần Tự Khánh đang làm tướng giúp nhà Lý.
Để giải trừ mối lo cho họ Trần, Trần Thừa tung toàn bộ lực lượng "bao
vây Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, , đồng thời sai mở đê để đưa nước vào
các làng ấp . Lại Linh theo cái thế nước ấy mà đánh. Quân của Nguyễn
Nộn thua to. Vợ con của Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn đem hơn
một trăm người lui về giữ Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh- ND) " (ĐVSL).
Quân của Nguyễn Nộn gần như tiêu tán hết, tuy nhiên là một viên
tướng có khí phách, ông này đã nhanh chóng tu bổ lại lực lượng
và chiếm ấp Bình Cảo (23) làm
cứ địa. Biết Nguyễn Nộn chưa chết, dù đã bị Trần Thừa đánh bại,
Trần Tự Khánh nhất định bằng mọi giá phải diệt Nguyễn Nộn. Trên
đường mang quân đi đánh Nam Sách, Tự Khánh mang hai bộ tướng là
Nguyễn Cải và Nguyễn Mộc theo đường tắt đến tấn công Bình Cảo,
nhưng Nguyễn Nộn đã mang quân sang động An Đinh, Tự Khánh đánh
động này nhưng không thắng.
Sau đó theo ĐVSL thì Nguyễn Nộn bị bệnh và chết năm 1219, các
tướng của Nguyễn Nộn đầu hàng : "Ngày Canh Ngọ, tướng
của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các người con của vua
là bọn Công chúa ra hàng nơi Thái úy. Đại tướng của Nguyễn Nộn
là Nguyễn Doanh chạy trốn trong khu rừng hiểm trở ở Thị Hàng hơn
năm ngày, rồi tìm cách tự cứu lấy mình, nhưng cái Ké đã cùng bèn
đem con doanh mã (ngựa hay có tiếng) ra dâng mà xin hàng. Bắc Giang
được yên” (ĐVSL).
ĐVSL nói về Nguyễn Nộn khác với hai bộ chính sử là ĐVSKTT, và
KĐTGCM cũng như Việt Sử Tiêu Án và Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của
Ngô Thời Sỹ. Các bộ sử này đều viết là Nguyễn Nộn vẫn còn sống
cho tới khi nhà Trần lên ngôi. Nguyễn Nộn đánh thắng Đoàn Thượng
ở vùng Hồng, giết ông này, Trần Thủ Độ đã ra công đánh dẹp nhưng
không có kết quả. Nguyễn Nộn đã tạo nên một lực lượng đáng ngại
cho nhà Trần, đến độ họ Trần phải gả công chúa cho Nộn, tuy nhiên
ông này vẫn không hàng, chỉ khi Nguyễn Nộn bị bệnh chết (năm 1229),
nhà Trần mới hoàn toàn hết lo lắng (đã được trình bày trong phần
trước trong tiết mục "Sứ quân" Nguyễn Nộn). Từ đây về
sau người viết xin theo các bộ sử vừa nêu trên khi nói về Nguyễn
Nộn.
Về lực lượng tại Nam Sách: "Tướng Nam Sách là Hoàng
Cá lìa trần, bọn Nguyễn Lợi đều ra hàng. Nam Sách được yên"
(ĐVSL).
Lực lượng vùng Hồng dù đã hàng nhà vua nhưng cũng vẫn là mối lo
cho họ Trần. "Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm có trí lược,
có tài năng và được lòng dân chúng, cho nên người vùng Hồng, đa
số theo về với ông" (ĐVSL). Để bớt lo lắng, Trần Tự
Khánh gả em gái của ông là Trần Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi để kết
thân với họ Đoàn (24).
Từ thời điểm này trở đi, không thấy sử liệu nào nó tới binh biến
giữa họ Trần với họ Đoàn tới khi nhà Trần lên ngôi.
Họ Trần đã tạm dẹp yên được các địch thủ đáng ngại, ngoại trừ
đám quân của Hà Cao đóng tại Qui Hoá, phía bắc sông Hồng (khúc
sông này được gọi là Qui Hóa giang). Hà Cao có một lực lượng quân
sự tương đối mạnh. Để chắc thắng, quân họ Trần chia làm hai đạo. "Thái
úy và Thái Tổ theo đường sông Quy Hóa. Lại Linh và Phan Cụ theo
đường sông Tuyên Quang (25),
quân của Hà Cao đều tiến đánh, Phan Cụ bị hãm ở nơi cái đầm và
bị tướng của Cao là Nguyễn Nải chém. Hà Cao nghe quân của Thái
úy bốn mặt bao vây mới vội vàng cùng với vợ và con của ông đều
thắt cổ mà chết. Từ đó Lộ Thượng Nguyên (26),
sông Tam Đái (27) v.v...
đều được yên ổn cả" (ĐVSL). Ngoại trừ họ Đoàn ở vùng
Hồng đã hàng và kết thân với họ Trần, chỉ còn lại hai lực lượng
không đáng kể của Nguyễn Nộn (sẽ khôi phục lại sau này) và đám
quân Sơn Lão (bị Tự Khánh dẹp tan tháng giêng năm sau 1223) , họ
Trần coi như đã dẹp xong các loạn lạc và chuẩn bị âm mưu thay nhà
Lý làm vua Đại Việt.
Để dọn sạch các chướng ngại cho âm mưu, Trần Tự Khánh đi thêm
một bước nữa là giết các võ tướng đã từng theo mình xông pha trận
mạc. Từ lúc Tự Khánh kéo quân về Thăng Long, mang theo hai đại
tướng là Phan Lân và Lại Linh cùng những viên tì tướng khác. Phan
Lân phản và đã bị Tự Khánh giết (tháng 4, 1214). Nay không thấy
nói vì lý do gì, "Tháng giêng (NV:1222), Thái úy Trần
Tự Khánh sai người bắt Bảo Tín hầu là Lại Linh. Lại Linh tự thắt
cổ mà chết" (ĐVSL). Thế là hầu như các võ tướng còn
lại hầu hết là họ Trần như Trần Thừa, Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm,
Trần Báo. Một biến cố đáng ngờ xảy ra: ông vua do Trần Tự Khánh
lập nên là con vua Anh Tông khi vua Huệ Tông không ở kinh thành
là "Huệ Văn Vương tức là Nguyễn (NV: L ý) Vương từ trần,
nhà vua cho bãi triều năm ngày, ăn chay ba ngày" (ĐVSL).
Thế là các vương hầu nhà Lý chẳng còn ai, chung quanh vua Huệ Tông
chỉ có toàn người họ Trần, nhà Lý coi như đã cáo chung.
Nội bộ đã tạm yên nhưng những de dọa từ phương bắc là Trung Hoa
và từ phương nam là Chiêm thành lúc này như thế nào?
Phương bắc: đời vua Tống Gia Định thứ 15, 1222, nhà Nam Tống (
từ sông Dương Tử tử trở về phía nam) đã suy yếu rất nhiều. Phía
bắc đã bị Kim chiếm, nhà Tống đang lo khôi phục lại đất này. Mông
Cổ đã có chiến tranh với Kim và chiếm kinh đô của Kim là Tây Kinh
năm 1210. Nhà Nam Tống đang lo sự bành trướng của Mông Cổ, dù năm
1234 Tống liên minh với Mông Cổ diệt Kim. Vì vậy sự đe dọa của
phương bắc đã không là mối lo của Đại Việt.
Phương nam: tháng 10, 1218, "Chiêm Thành và Chân Lạp
đến cướp châu Nghệ An, Lý Bất Nhiễm đánh tan được, thăng tước
hầu, ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500 hộ" (ĐVSKTT).
Từ lúc này cho đến khi nhà Trần làm vua Đại Việt, Chiêm Thành không
mang quân quấy nhiễu.
Phần 4: Nhà Trần thay nhà Lý
Sau khi giúp vua Huệ Tông dẹp xong loạn lạc, họ Trần coi như làm
chủ Đại Việt. Trần Tự Khánh đã được vua Huệ Tông phong đến chức
Phụ quốc thái úy (28) là
chức cực phẩm. Tuy nhiên chuyện bất ngờ xảy ra: "Tháng
chạp (NV: 1223), ngày Kỷ Mão. Phụ quốc Thái úy Trần Tự Khánh lìa
trần trong ngôi nhà ở Phù Liệt. Nhà vua cùng Thái hậu đến viếng
tang rồi khóc hết sức thảm (29).
Trần Tự Khánh được đặt cho tên thụy là Kiến Quốc Vương"
(ĐVSL). Trần Tự Khánh vùng vẫy vùng châu thổ sông Hồng 14 năm,
làm giặc 7 năm (1209-1216), phò vua Huệ Tông 7 năm, "đánh
đông dẹp bắc", những loạn lạc gần như tạm yên. Trần Tự Khánh
chết, anh là Trần Thừa nắm trọn binh quyền họ Trần, thừa hưởng
những thành công của Tự Khánh.
Tháng giêng năm 1226, vua Huệ Tông "cho Thái Tổ (Trần
Thừa) làm Phụ quốc Thái úy, làm Nội thị Phán Thủ, cất cử quan
Thượng phẩm hầu là Trần Báo làm tước Vương và thụy hiệu (30) là
Hiển Thành" (ĐVSL). "Trần Tự Khánh chết,
truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc
Thái uý, khi vào chầu không xưng tên" (ĐVSKTT).
Sức khỏe của vua Huệ Tông và việc Chiêu Thánh công chúa
lên ngôi
Vua Huệ Tông và hoàng hậu họ Trần không sinh
được hoàng tử nào mà chỉ có được hai công chúa là Thuận Thiên (31) (sinh
năm 1216) và Chiêu Thánh (Lý Phật Kim, sinh năm 1218). "Bính
Tý, [Kiến Gia] năm thứ 6 (1216) ….Vua
có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử,
trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi. …. (1217) vua
dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm
giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không
nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống
rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán,
giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về
tay kẻ khác.(ĐVSKTT). Vậy là từ khi chưa về với Trần Tự Khánh
(1216) nhà vua đã không khỏe từ thể xác tới tinh thần.
Từ bé tới
khi lên làm vua lúc 17 tuổi (vua Huệ Tông sinh năm 1194, lên ngôi
1211), nhà vua đã quen sống trên nhung lụa nhưng tháng giêng năm
1214 (bôn tẩu khỏi kinh thành) tới tháng giêng 1216 (về theo Trần
Tự Khánh), đúng hai năm, vua Huệ Tông đã phải lang thang từ kinh
thành cho tới Lạng Châu là miền rừng thiêng nước độc. Thật là khó
mà tránh được bệnh tật cho một người không quen với hoàn cảnh
này. Làm vua thì bị mẹ và đám ngoại thích họ Đàm kềm kẹp và bị
Trần Tự Khánh thao túng. Rồi lại phải chứng kiến cảnh cực kỳ đau
lòng là mẹ ruột giết những em của mình mà không làm gì được. Nhà
vua còn phải chứng kiến cảnh chém giết triền miên, cung điện bị
tàn phá, dân chúng điêu linh. Bản thân nhà vua, tự cầm quân mấy
lần nhưng đều thất trận, có lần sắp bị vong mạng vì đám giặc cỏ.
Việc này ảnh hưởng tới tâm thần nhà vua rất nhiều và nhà vua đã "dần
dần phát điên".
ĐVSL không nói rõ về sức khỏe của vua
Huệ Tông, chỉ viết là nhà vua khi còn bôn ba ngoài kinh thành đã
cắt tóc (“thí phát”, các vua nhà Lý rất trọng Phật Giáo) và có
ý nhường ngôi vua, nhưng không nói rõ là muốn nhường ngôi cho ai.
Lúc này, năm 1224, khi lúc mới được 30 tuổi, Huệ Tông đã chán
ngán thế sự. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh công chúa, 7
tuổi, được nhà vua rất thương yêu nên nhường ngôi cho cô công chúa
này: "Tháng 6, nhà
vua nhường ngôi cho con thứ hai là Công chúa Chiêu Thánh. Chiêu
Thánh lên ngôi lấy thụy hiệu là Chiêu Vương, tôn vua Huệ Tông làm
Thái Thượng Vương, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo" (ĐVSL).
Sau khi nhường ngôi vua Huệ Tông đi tu ở chùa Chân Giáo, tuy nhiên
vẫn theo dõi những diễn biến trong triều đình .
Biến cố này được
ĐVSKTT ghi lại như sau: "Giáp Thân, [Kiến
Gia] năm thứ 14 [1224] , (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu
cuả Chiêu Hoàng Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm
thứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối
nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc,
uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân
điện tiền hộ vệ cấm đình. Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu
lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho.
Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi,
đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu
Hoàng ".
Một cô bé 7 tuổi lên ngôi vua, biết đổi niên
hiệu, lấy tôn hiệu? Bắt buộc phải có bàn tay đạo diễn nhúng vào.
Đương nhiên là họ Trần làm đạo diễn, nhưng người nào là đạo diễn
chính, ai là đạo diễn phụ và ai là người chủ xướng trong biến
cố này?
Vai trò của Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ là em con
ông chú của Trần Thừa và Trần Tự Khánh. Trần Thủ Độ là một võ tướng
có tài dưới quyền Tự Khánh. Lần đầu xuất trận lúc khoảng hai mươi
tuổi (Thủ Độ sinh năm 1193), khi theo Tự Khánh đánh kinh đô Thăng
Long (năm 1213) và thắng trận, sau đó lại đánh thắng hai nhân vật
cự phách ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi trong lúc trên
đường đi trấn nhậm Lạng ải.
Năm 1224, Trần Thủ Độ được triệu về
Thăng Long làm Điện tiền chỉ huy sứ (lúc 31 tuổi), chỉ huy lực
lượng bảo vệ nội cung, đây là một chức vụ rất quan trọng, có thể
duy trì hay lật đổ một triều đại nếu có hậu thuẫn bên ngoài. Vua
Thái Tổ nhà Lý là Lý Công Uẩn đã giữ chức vụ này và đã thay thế
nhà Tiền Lê, làm vua đầu tiên của nhà Lý. Trần Thủ Độ với chức
vụ Điện tiền chỉ huy sứ muốn bắt chước việc này để nhà Trần thay
nhà Lý.
(Người viết xin sao lại những đoạn trích trong hai bộ sử
là ĐVSL và ĐVSKTT song song, để những sử liệu này bổ túc lẫn nhau,
ngõ hầu có thể tìm hiểu rõ hơn về giai đoạn biến chuyển quan trọng
này)
Một năm sau khi Lý Chiêu Hoàng lên làm vua, Trần Thủ Độ bắt
đầu“đạo diễn” cảnh thay đổi triều đại. Thủ Độ cho người "viết
dùm" Chiêu
Hoàng tờ chiếu "Ất Dậu, Thiên Chương
Hữu Đạo năm thứ 2 [1125]…. mùa đôngtháng 10 , xuống chiếu
tuyển con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong
nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu, Nội nhân thị nội (32),
ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu" (ĐVSKTT). Với tờ
chiếu này, Thủ Độ chính thức đưa thân quyến họ Trần vào cung, tiếng
là hầu hạ, nhưng là để bao vây cô nữ chúa nhỏ bé, dò xét động tĩnh
trong nội cung và chờ cơ hội thuận tiện : "Điện tiền
chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành
thị. Cháu gái Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục
cục chi hậu (33),
Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ" (ĐVSKTT).
Trần Cảnh là con thứ của quan Phụ quốc thái úy Trần Thừa, một
cậu bé cùng tuổi với Chiêu Hoàng (sinh năm 1218) và có tướng mạo
đẹp, Thủ Độ đưa cậu bé này đi sát với Chiêu Hoàng. Dù là vua đi
nữa, đứa bé nào mà chẳng muốn có bạn chơi chung, ngoại trừ bị bệnh
tâm thần. Chiêu Hoàng, một cô bé mới 8 tuổi, không thể nào ngoại
lệ. Thấy Trần Cảnh gần mình "Chiêu Hoàng trông thấy làm
ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ
tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng.
Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay
vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn
trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh… Lại một hôm, Chiêu Hoàng
lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có
tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười
và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó".
Cảnh lại về nói với Thủ Độ " (ĐVSKTT). Thế là "cá
đã cắn câu", cô nữ chúa nhỏ bé đã chọn Trần Cảnh làm bạn để
nô đùa. Thủ Độ thấy đã tới lúc cần phải hành động …
Trần Thủ Độ
về bàn với Trần Thừa và bà thái hậu họ Trần (34)(mẹ
Chiêu Hoàng) về những hành động “lấy tay vốc “nước”
té ướt cả mặt Cảnh” của Chiêu Hoàng. Thấy Chiêu Hoàng thân
cận với Trần Cảnh, Thủ Độ bày vẽ gán ghép chuyện vợ chồng cho hai
đứa bé con 8 tuổi (năm 1225) (35) chưa
biết chuyện gì !
" Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế
thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?"…."Thủ
độ sợ việc [33b] tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia
thuộc thân thích vào trong cung cấm (36).
Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu
không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng
rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu" (ĐVSKTT).
Cổng nội cung bị đóng, trong cung chỉ còn lại vua Huệ Tông, hoàng hậu họ Trần,
Lý Chiêu Hoàng, Thái hậu họ Đàm và những người hầu hạ, còn quan lại nhà Lý
thì bị chặn không cho vào. Chỉ những vị quan nào Thủ Độ muốn mời vào để…. "diễn
xuất" …!
"Mùa đông, tháng 11 (Nv:1225), Thái Thượng Vương thấy
nữ Vương còn nhỏ, lấy làm lo âu mới cho mời Phùng Tá Chu đến mà
định mưu nói rằng: "Trẫm vì không có đức, Trẫm mắc tội với
trời, cho nên bị tuyệt hậu, không có con để nối dõi. Nay Trẫm truyền
ngôi cho con gái, nhưng thấy một người đàn bà mà khiến bảo đám
đàn ông, như có điều là bọn chúng không giúp cho, tất đến lúc hối
hận lại thì cơ nghiệp đã mất rồi. Chi bằng Trẫm theo cái phép thuở
xa xưa của Đường Nghiêu, cái thể thức gần đây là Nhân Tổ (37),
để kén chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay có điều Trẫm thấy
là mỗ (38) người con
thứ hai của Thái úy (Trần Thừa) tuổi hãy còn nhỏ mà tướng mạo khác
thường, tất có thể giúp đời, yên dân. Cho nên, Trẫm muốn dùng làm
con mà làm chủ cở nghiệp nước nhà. Vả lại, Trẫm thấy Chiêu Vương
cũng xứng đôi với mỗ. Các khanh hãy vì Trẫm mà nói với quan Thái
úy rõ (39) "
(ĐVSL) . Vua Huệ Tông bàn tính việc nhường ngôi cho họ Trần với
Phùng Tá Chu (người thân cận của họ Trần, chắc đây là một diễn
viên đã được họ Trần Thủ Độ chọn lựa)! Có lẽ vua Huệ Tông đã không
thể có chọn lựa nào khác! Phùng Tá Chu, Phan Lân và Nguyễn Ngạnh
là những người mà Trần Tự Khánh đã sai đi để đưa em gái của ông
là Trần Thị Dung (Trần thái hậu) về với Huệ Tông. Ảnh hưởng đến
quyết định của vua Huệ Tông hơn cả là bà Thái hậu họ Trần, người
làm nội công cho việc thay đổi triều đại. Ngoại thích họ Trần đã
làm chủ triều đình, nhà Lý coi như đã mất với quyết định không
thể chọn lựa này của Thái Thượng hoàng Huệ Tông.
Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần lên
ngôi
Nơi nội cung, qua sự dàn xếp của Trần Thủ Độ và sự trợ giúp của
Trần thái hậu, mọi sự đã xảy ra đúng như ý muốn của họ Trần. Tuy
nhiên nhà Lý đã làm vua Đại Việt trên 2 thế kỷ, đột ngột thay đổi
một triều đại đã được toàn dân trong nước chấp nhận là một chính
biến cực kỳ lớn lao, Trần Thủ Độ cũng phải nói: "lòng
dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ" (40)(ĐVSKTT).
Để cho dân chúng thuận theo triều đại mới, việc đầu tiên là Họ
Trần phải tìm cách "thuyết phục" (41) đám
quan lại nhà Lý, họ sẽ là cái gạch nối giữa triều đình mới lập
và người dân. Mặc dù Thái thượng hoàng Huệ Tông đã bằng lòng để
Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh (bàn với Phùng Tá Chu!)
, nhưng việc này phải được triều đình nhà Lý công khai chấp thuận.
Nếu toàn bộ triều đình nhà Lý chấp thuận tân triều, may ra lòng
người mới thuận.
Một buổi họp triều đình với tất cả bá quan văn võ của nhà Lý phải
được tổ chức để công khai hoá vấn đề. Sự hiện diện của chức quan
cao cấp nhất trong triều là …Trần Thừa (!) với chức Phụ quốc thái
úy là một sự bắt buộc, nên "nhà vua (Nv: Chiêu Hoàng)
sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển
Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài
và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng (42) ,
chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái
Tổ ta (Trần Thừa)" (ĐVSL). Quan Phụ quốc thái úy Trần
Thừa được thông báo về quyết định của Thượng hoàng Huệ Tông, nhưng "Thái
Tổ (Trần Thừa) cũng chưa tin điều ấy (43).
Quan Tả phụ là Nguyễn Chánh Lại bảo rằng: "Họ Nguyễn (tức
họ Lý-ND) có nước đấy. Vua hiền thì có đến sáu, bảy người gầy dựng
nên cơ nghiệp, mà cái đức của họ lại có thừa, để lại cái ơn trạch
thấm nhuần vào lòng người đã lâu dài rồi. Một sớm, nhà vua sợ có
người khác họ làm việc kế tự nên mới có ý thăm dò thử, để xem cái
ý của ta như thế nào đấy. Nếu ta nhân đó mà nhận lời, thiên hạ
tất sẽ bảo Thái úy thực đã có ý soán nghịch" (ĐVSL).
Ngoại trừ trường hợp quan Tả Phụ Nguyễn Chánh Lại được họ Trần
nhờ đóng kịch (?), còn nếu không thì sinh mạng ông này có lẽ sắp
bị nguy đến nơi! Trần Thừa biết rõ việc ông ta đang làm: giống
như Tào Tháo thời Tam Quốc, nhiếp chính với quyền uy thật sự của
một ông vua, con mình là Tào Phi sẽ lên ngôi dựng nên nhà Tấn sau
này, Tào Tháo muốn tránh tiếng cướp ngôi nhà Hán, Trần Thừa cũng
sẽ làm như vậy.
" Thái úy (Trần Thừa) muốn nghe theo lời của Nguyễn
Chánh Lại thì quan Thượng Phẩm Phụng Ngự là Trần Thủ Độ nói rằng: "Lời
Tả Phụ sai rồi! Nếu mà vương thượng có con trai mà lại nhường
ngôi cho nhị lang thì việc trái nghĩa ấy ta không thể vâng chiếu
được. Nay, Vương thượng không người kế tự, ý muốn chọn người
hiền để phó thác ngôi cao. Đó là vương bắt chước việc nhường
ngôi của nghiêu Thuấn thuở xa xưa. Vậy mà lo ngại nữa sao? Huống
chi, ngôi chí tôn không thể để khuyết lâu, mà ý thoái lui của
vương thượng thì đã quyết, vương thượng đã dứt khoát chọn người
khác họ để cho nối ngôi, liệu ta không muốn nghe theo mà được
chăng? Nhị lang được vương thượng chọn cũng là ý trời,
trời đã ban cho mà không nhận là có tội ấy. Xin quan Thái úy
hãy xét kỹ" (44) (ĐVSL).
Trần Thừa làm ra vẻ muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại,
nhưng Thủ Độ gạt đi cho là không phải. Màn kịch "vùa tung
vừa hứng" được anh em họ Trần diễn xuất một cách tài tình
và có thứ tự nhịp nhàng, để bịt miệng quan lại nhà Lý bằng "ý
trời" và để qua mắt thiên hạ.
Sau đó Trần Thủ Độ và Trần Thái hậu nhờ người viết sẵn bài chiếu
để Lý Chiêu Hoàng hạ chiếu trước mặt bá quan văn võ: “Xuống
chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên
hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên
thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh,
không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh
chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy (45).
Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ,
giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề?
Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm
người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn
khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm
bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay
trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người
văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường
hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái
Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên
nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm (46),
mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình.
Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết" (ĐVSKTT).
Sau khi đã hạ chiếu trước triều đình nhà Lý để “nhường” ngôi cho
chồng là Trần Cảnh, việc đăng quang phải được chính thức hóa cho
vị hoàng đế mới: “Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng
mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều
phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn
trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi
niên hiệu là Kiến Trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện
Hoàng, sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là
Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế” (ĐVSKTT).
“Rồi tôn Vương hậu Thuận Trinh (47) làm
Thái Hậu và giáng Chiêu Vương (48) xuống
làm Vương Hậu Chiêu Thánh. Đổi niên hiệu là Kiến Trung” (ĐVSL).
Thái Tông Trần Cảnh (49) lên
ngôi, một nước không thể hai vua, Thái Tông giáng Chiêu Hoàng xuống
làm Chiêu Thánh hoàng hậu.
Cậu bé 8 tuổi của họ Trần làm vua ,
với tuổi này Trần Thái Tông chưa có thể điều hành việc nước. Màn
cuối vở kịch được diễn: “Trần
Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước.
Thủ Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng.
Đoàn Thượng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn
bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy
yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác
nổi, mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa
am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng
dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không
biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp,
không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước,
một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị
lang". Các quan đều cho là phải, mời thánh
phụ Trần Thừa nhiếp chính” (ĐVSKTT).
Trần Thừa lên và nhiếp
chính một cách "danh chính ngôn thuận" và
làm Thượng hoàng . Có Thượng hoàng mới rồi, Thượng hoàng cũ phải
ra đi, " Thái Thượng Vương cùng với mẹ của ngài là bà
Thái Hậu Đàm thị (50) đi
ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền Sư" (ĐVSL). Hai
mẹ con cựu Thượng hoàng Huệ Tông phải rời nội cung để ra chùa
ở. ĐVSL viết tên chùa này là Phù Liệt, tuy nhiên ĐVSKTT và các
bộ sử khác đều viết đây là chùa Chân Giáo (51).
“Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh
thảo sư. Phế thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ
Quang đại sư” (52) (ĐVSKTT).
Quan Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lên làm Thái sư. Nhà Trần
chính thức lên làm vua của Đại Việt. Việc chuyển giao giữa hai
triều đại xảy ra một cách êm thắm, không xảy ra bất cứ biến loạn
nào, do Trần Thừa chủ trương, Trần Thủ Độ làm đạo diễn và Trần
Thị Dung làm phụ tá đạo diễn.
"Các quan trong triều đều công phẫn nhưng vì thế lực
họ Trần qúa mạnh nên đành thúc thủ.Quần chúng lưu luyến tiền
triều trong dịp này có lời khẩu-chiếm dưới đây:
Trống kia ai đánh thùng thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng"
(Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, quyển 1, trang 412, nhà xuất bản
Đại Nam).
"Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước
cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong
thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền
tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên
giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược
bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn
đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn
nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy" (Trần Trọng
Kim, Việt Nam Sử Lược, trang 122, nhà xuất bản Thông Tin, 1999).
Nhà Lý tới lúc này thật sự chấm dứt sau 216 (1010-1225) năm làm
vua Đại Việt, truyền ngôi được 9 đời:
1- Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn, làm vua 18 năm [1010-1028], thọ
55 tuổi [974-1028])
2- Lý Thái Tông (Lý Phật Mã, làm vua 27 năm [1028 - 1054], thọ
55 tuổi [1000 - 1054])
3- Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn, làm vua 17 năm [1054- 1072], thọ
50 tuổi [1023-1072])
4- Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức, làm vua 56 năm [1072 - 1127], thọ
63 tuổi [1066 - 1127])
5- Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán, làm vua 11 năm [1128 - 1138], thọ
23 tuổi [1116 - 1138]
6- Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ, làm vua 37 năm [1138-1175], thọ 40
tuổi [1136-1175])
7- Lý Cao Tông(Lý Long Trát, làm vua 35 năm [1176- 1210], thọ 38
tuổi [1173-1210])
8- Lý Huệ Tông(Lý Sảm, làm vua 14 năm [1211-1224], thọ 33 tuổi
[1194-1226])
9- Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim, làm vua 2 năm [1224-1225], thọ
61 tuổi [1218- 1278])
Kết luận
Qua những trình bày trong phần trước, sự thay đổi triều đại từ
Lý sang Trần đã không quá đơn giản. Cuộc "đảo chính không
đổ máu"này chỉ xảy ra hồi tháng chạp năm Ất Dậu (1225). Liên
tục trong 16 năm (1209-1225), biết bao chinh chiến điêu linh và
tang tóc đã xãy ra cho người dân ở đồng bằng sông Hồng. Sự việc
đã không xảy ra ngắn và gọn như ĐVSKTT viết, hay tất cả các bộ
sử khác của nước Việt đặt căn bản trên bộ sử này, ngoại trừ ĐVSL
của tác giả Khuyết Danh. Người viết chỉ muốn sắp xếp lại những
sự việc đã viết trong ĐVSL, cùng so sánh sử liệu này với các bộ
sử khác để có cái nhìn rõ ràng hơn về một giai đoạn chuyển tiếp
quan trọng trong lịch sử nước Việt.
Những diễn tiến đã xảy ra từ lúc vua Cao Tông bôn đào khỏi kinh
thành vì loạn Quách Bốc (Tháng 7, 1209). Họ Trần nhận thấy nhà
Lý đã cực kỳ suy yếu, nên đã có ý muốn nhảy vào chính trường để
đợi thời cơ. Ông Trần Lý nghe ngóng và biết được những việc xảy
ra trong cung đình nhà Lý qua bà vợ họ Tô, cũng như em của bà này
là Tô Trung Từ (hậu duệ của quan đại thần Tô Hiến Thành). Dịp may
tới tay họ Trần; khi thái tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, họ Trần không
bỏ qua cơ hội hiếm có này. Muốn có được sự liên hệ với nhà Lý và
cơ hội nhảy vào chính trường, Trần Lý đã gả con gái là Trần Thị
Dung - người được ĐVSKTT viết là "có nhan sắc" (53) - cho thái tử Sảm. Từ đây, liên hệ giữa họ Trần và họ Lý là Trần
thị. Các biến cố dồn dập xảy ra, binh biến liên miên, người dân
là những kẻ chịu nhiều tai ương hơn cả, nhà cửa cung điện tại kinh
thành bị đốt tiêu tan, cả vùng bị dìm chết. Trần Tự Khánh là kẻ
gây hoạ cho người dân nhiều nhất so với các "sứ quân" khác;
liên tục trong 7 năm trời (khi Huệ Tông chưa về với Tự Khánh).
Mãi tới lúc theo giúp nhà Lý, trong thời gian 7 năm; Trần Tự Khánh
đã ra công đánh dẹp khắp nơi, họ Trần đã tạo được một sự ổn định
tương đối cho đất nước tới khi nhà Trần lên ngôi.
Lịch sử đã lập lại và sẽ tái diễn cho những chế độ quân chủ; phong
kiến; độc tài; chuyên chế: bất cứ một chế độ nào đi ngược lại lòng
người dân sẽ bị đào thải. Họ Lý suy vong, họ Trần lên ngôi, rồi
họ Trần cũng sẽ như họ Lý, sẽ bị thay thế bởi họ Hồ. Họ Hồ dứt
cũng vì không được lòng dân, rồi đất nước lâm vào cảnh Minh thuộc
thảm khốc đau thương.
Để kết luận, người viết xin đưa câu nói của
Hồ Nguyên Trừng (54) khi
nhà Minh chuẩn bị mang quân sang xâm lăng nước Việt (1405). Vua
nhà Hồ (55) là Hồ Hán Thương hỏi thì "Tả
tướng quốcTrừng nói: "Thần
không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo
thôi!". Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Mệnh
trời là ở lòng dân . Câu nói của Trừng hiểu được điều
cốt yếu đó…."
Nước mất thì nhà tan, dân ly tán. Bài
học tự ngàn xưa đã được chứng minh và viết lại bằng máu và nước
mắt nhiều lần! Để ích quốc lợi dân và nước Việt được trường tồn,
ai là người biết áp dụng những kinh nghiệm lịch sử đã bị trả
bằng giá núi xương sông máu này ? ./.
Tham khảo
- Đại Việt Sử Lược ***, Thế Kỷ 14 (1377 - 1388), soạn giả: Khuyết
danh, 1377 –1388, dịchgiả: Nguyễn Gia Tường, 1972. Ấn bản điện
tử: Công Đệ, Lê Bắc.
*** Ghi chú : theo như sự khảo cứu của TS Lê
Mạnh Thát thì Đại Việt Sử Lược là của Trần Chu Phổ "đây
là một tác phẩm biệt lập và có khả năng là của Trần Chu Phổ, sống
khoảng trước sau 1225-1258" (TS Lê Mạnh Thát, bài viết "Bàn
về một phương pháp khoa học tích cực trong công trình nghiên cứu
văn hóa Việt Nam")
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in Nội các quan bản, mộc bản khắc
năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
1998.
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản
Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998.
- An Nam Chí Lược, Lê Tắc, dịch giả: Ủy ban dịch sử liệu Việt
Nam, nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế, ấn bản điện tử: Công Đệ,
Doãn Vượng, Lê Bắc.
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim- Nhà xuất bản Văn Hoá Thông
Tin-1999.
- Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam- Sàigon
1961.
- Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Ngô Thời Sỹ, nhà xuất bản Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội 1997.
- Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sỹ, dịch giả: Hội Việt nam ngiên cứu
liên lạc văn hóa Á Châu, nhà xuất bản văn Sử. Ấn bản điện tử :
Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.
- Đại nam Nhất Thống Chí, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, người dịch:
Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, nhà xuất bản Thuận
Hoá , 1997
1. Doãn Tín Dực
là quan nhà Lý, ông này chống lại Trần Tự Khánh, đã bị Khánh
bắt giam rồi lại thả ra - đã trình bày trong phần trước.
2. Người viết
không biết chính xác địa danh này, nhưng phỏng đoán là núi
Tam Trĩ ở gần sông Thương thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay
3. Chú thích
của dịch giả : Cam Giá ở Hà Tây.
4. Người viết
phỏng đoán là núi này nằm phía nam sông Thiên Đức (sông Đuống),
Bắc Ninh. ĐVSL viết : " Đông Cứu và vùng Hồng hai
cõi liền nhau" . Ngày nay có một địa danh là xã Đông
Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
5. Người viết
phỏng đoán vùng này nằm phía đông của Thăng Long, phía tả ngạn
sông Hồng
6. Người viết
tự hỏi : không biết bà vợ của Nguyễn Nộn được ĐVSL nói lúc
này có phải là con của bà dì của Khánh; mà Khánh đã gả cho
Nộn hồi tháng 9 năm trước (1213), hay là người vợ nào khác
của Nộn.
7. Huệ Văn Vương
do Trần Tự Khánh lập nên làm vua
8. Bà thái hậu
họ Đàm này có lẽ muốn tiêu diệt hết tông thất của họ Lý .
9. Ghi chú của
dịch giả :" Cứu Liên, Cửu Cao và Cửu Ông nay thuộc
vùng tiếp giáp giữa Hưng Yên và Bắc Ninh".
10. Người viết
chưa tra cứu được vị trí của địa danh An Duyên Phù Liệt. Tuy
nhiên trong ghi chú của dịch giả thì Phù Liệt thuộc Thanh Trì,
Hà Đông. Ghi chú của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì "Tây
Phù Liệt và Đông Phù Liệt " nay ở huyện Thanh Trì, Hà
Nội.
11. Không thấy
ĐVSL nói nhà vua sai lực lượng nào đi đánh Lại Linh. Theo thiển
ý của ngưới viết thì đây là lực lượng của Nguyễn Nộn
12. Tác giả
Trần Gia Phụng trong Việt Sử Đại Cương tập 1, trang 210 có
đề cập đến một hoàng thân nhà Lý như sau:
"Sau khi nhà Lý mất ngôi, hoàng tử Lý Long Tường, một
người con thứ của Lý Anh Tông, đã bỏ nước ra đi vào năm 1226
(bính tuất). Ông cùng đoàn tùy tùng dùng thuyền vượt biển sang
Trung Hoa, rồi qua lập nghiệp ở Triều Tiên (hay Cao Ly tức
Korea)".
Cũng trong sách này, ghi chú số 3, trang 223: " Nguyễn
Văn Canh, "Hoàng Tử Lý Long Tường", đăng trong Kỷ
Yếu Bắc Ninh, 1997, tt 105-128. Khi Mông Cổ sang xâm lăng
Triều Tiên vào các năm 1232 và 1253, Lý Long Tường đã góp sức
chống quân Mông Cổ, lập chiến công nên được vua Triều Tiên
trọng thưởng. Cháu chắt dòng dõi của Lý Long Tường đã tìm về
Việt nam để thăm quê hương của tổ tiên. Tài liệu chính để tiến
sĩ Nguyễn Văn Canh viết bài nầy là tấm văn bia tại Thụ Hàm
Môn (Thụ Hàm Môn bi các) hiện còn ở Thụ Hàm Môn (Bắc Triều
Tiên) và quyển lịch sử tiểu thuyết Triều Tiên là Hoàng
Tử Lý Long Tường. Tiểu thuyết dã sử nầy căn cứ theo gia
phả họ Lý ở Triều Tiên, với ít nhiều thêm bớt.
13. Khu Cầu
Giấy, Hà Nội.
14. Linh Nhân
Hoàng Thái Hậu là Ỷ Lan Phu Nhân, vợ vua thứ 3 nhà Lý là Lý
Thánh Tông, mẹ của vua Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức)
15. Ghi chú
của người dịch : " Đại Hoàng là nơi sanh trưởng của
Đinh Tiên Hoàng đế, tức thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
ngày nay ".
16."Hồi
tâm" vì cô em gái của Tự Khánh là vợ vua "bắn tin" cho.
17. Đợi ban
đêm, mẹ và con không biết nên vua Huệ Tông mới dám có quyết
định dẫn vợ để về với Trần Tự Khánh. Thế là mẹ và hai cô công
chúa còn bé tí phải đi lẩn tránh ở Ô Kim.
18. Người viết
không thấy ĐVSL nói lúc nào Ô Kim Hầu Lý Bát được phong là
Hiển Tín Vương
19. Bao nhiêu
cung thất trong đại nội (tại quận Ba Đình, Hà Nội) đã bị đốt
sạch, nên cung điện mới bằng cỏ được Tự Khánh dựng lên ở phía
nam Thăng Long, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay
20. Không thấy
ĐVSL nói Phạm Ân là tướng của ai, người viết phỏng đoàn đây
là một bộ tướng của Trần Tự Khánh, được Khánh cử đi đóng quân
ở Lãnh Kinh (phía nam sông Cầu, thị xã Bắc Ninh ngày nay ).
Ải Đạo- người viết chưa tra cứu được địa danh này, chỉ phỏng
đoán đây là đồn của quân Trần Tự Khánh dựng nên để ngăn quân
Bắc Giang của Nguyễn Nộn, phía bắc Thăng Long, phía nam sông
Cầu.
21. Ghi chú
của người dịch: “ Khoảng phủ Vĩnh Tường, trước thuộc tỉnh Sơn
Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên”
22. Sau trận
này, không thấy ĐVSL nhắc tới Hiển Tín Vương Lý Bát, người
viết phỏng đoán là ông đã bị chết hay bị giết trong trận này
.
23. Người viết
chưa tra cứu được Bình Cảo ở đâu.
24. Trần Tam
Nương đã gả cho Nguyễn Đường, Đường chết, Tự Khánh lại gả cô
em cho Đoàn Văn Lôi. Đây là cách họ Trần thường dùng để giảng
hoà, hay mưu lợi cho dòng họ cũng như cho đất nước về sau này,
con gái họ Trần hoặc thân thuộc đã bị hy sinh nhiều lần cho
mưu đồ chính trị:
Trần Thị Dung gả cho thái tử Sảm (vua Huệ Tông),
Trần Tự Khánh gả em là Trần Tam Nương cho Nguễn Đường, Đường
chết lại gả Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi,
Trần Tự Khánh gả em họ (con của bà dì ) cho Nguyễn Nộn.
Công chúa Ngoạn Thiềm gả cho Nguyễn Nộn để theo dõi Nộn
Vua Trần Thái Tông (Trần cảnh) gả chính vợ của mình là Chiêu
Thánh công chúa cho Lê Phụ Trần.
Vua Trần Nhân Tông gả em gái của mình là An Tư công chúa
cho Thoát Hoan
Vua Trần Nhân Tông gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân (vua
Chiêm Thành ) để đổi lấy hai châu Ô, Lý.
25. Sông Tuyên
Quang là khúc sông chảy ngang thị xả Tuyên Quang tới chỗ nhập
vào sông Hồng
26. Ghi chú
của người dịch: "Lộ Thượng Nguyên nay thuộc Bắc Cạn
và Thái Nguyên"
27. Ghi chú
của người dịch: "Tam Đái: nay thuộc Vĩnh Phú"
28. 108) Theo
thiển ý, chức "Phụ quốc thái uý" tương đương với
chức tể tướng hay Thủ tướng ngày nay
29. 109) Trước
đó thì ghét cay ghét đắng, nhưng sau đó lại như thế này! Vua
Huệ Tông thì tâm thần không sáng suốt, tuy nhiên thái hậu và
đám ngoại thích không nhìn thấy là nhà Lý đang từ từ rơi vào
tay họ Trần hay sao?
30. 110) Trần
Báo được phong tước vương và thụy hiệu thì chắc là ông này
vừa qua đời. Người viết chưa tra cứu được Thượng phẩm hầu
Trần Báo có liên hệ thế nào với Trần Tự Khánh. Ông này chắc
là phải có liên hệ rất gần với Tự Khánh nên mới được phong
tới Thượng phẩm hầu, rồi khi chết được phong tước vương . Trần
Hải là con Trần Tự Khánh được phong tước Hiển Đạo Vương khi
còn sống. Vậy theo phỏng đoán của người viết thì Trần Báo là
em Trần Hải, con Trần Tự Khánh.
31. 111) ĐVSKTT: "Mùa
hạ, tháng 6, hoàng trưởng nữ sinh ở bãi Cửu Liên, sau phong
làm công chúa Thuận Thiên" . Người viết chưa tra cứu được
tên thật của vị công chúa này. Công chúa Thuận Thiên sau này
được gả cho con cả Trần Thừa là Trần Liễu (Thuận Thiên công
chúa là con của bà cô Trần Liễu - Trần Thị Dung), tuy nhiên
khi bà này có thai 3 tháng, Trần Thủ Độ bắt gả cho Trần Cảnh
là em Trần Liễu vì lúc này Thái Tông Trần Cảnh chưa có con
trai.
32. 112) Ghi
chú trong ĐVSKTT: "Lục hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa
(có lẽ là sáu đội lính) hầu ngoài cung; Chi hậu, Nội nhân thị
nội: các chức chi hậu và nội nhân hầu bên trong".
33. 113) Ghi
chú trong ĐVSKTT: " Cận thị thự lực cục chi hậu:
chức chi hậu ở sáu cục của cận thị thự là thự giữ việc hầu
cận vua" (câu này có vẻ khúc mắc khó hiểu, tuy nhiên
người viết sao lại giống như bản chính).
34. 114) Trần
thái hậu lúc này đã có “cảm tình” với quan Điện Tiền chỉ huy
sứ lâu rồi, từ khi ông này vào cung (1224) hay trước đó (?)
và vua Huệ Tông thì đang ở chùa Chân Giáo.
“Hoàng hậu mới cùng với Thủ Độ tư thông, rồi bàn mưu ở
trong cung làm tờ chiếu để vua nhà Lý truyền ngôi cho nhà Trần”
(VSK ĐTGCM).
35. 115) Cuối
thời Lý, câu “nữ thập tam nam thập lục” chưa có trong dân gian
hay sao mà họ Trần bắt Trần Cảnh và Chiêu Hoàng “tảo hôn” sớm
thế này! Dù “lửa gần rơm” nhưng đứa bé trai 8 tuổi thì làm
sao mà làm đượ c “chuyện người lớn”. Chắc là tại Trần thái
hậu và quan Điện tiền chỉ huy sứ quá “sốt ruột” nên tự châm
lửa “đốt rơm”!
36. 116) Quan
Điện tiền chỉ huy sứ rõ là vẽ chuyện ! Ai dám vào đây mà giết!
Quân đội coi nội cung thì ngài coi. Ngoài thì Phụ quốc Thái
úy Trần Thừa nắm toàn bộ binh lực họ Trần.
37. 117) ND: "Nhân
Tổ tức là Lý Nhân Tông. Lý Nhân Tông riêng trong hoàng tộc
thì đối với Lý Huệ Tông cũng là hàng "Tổ". Nhân
Tông (tức Nhân Tổ) không có con truyền ngôi cho cháu là Dương
Hoán, tức là Lý Thần Tông".
38. 118) ND: " Người
chép sử ở vào triều nhà Trần nên kiêng tên húy của vua Trần
Thái Tông là Trần Cảnh mà chép tên "mỗ"…"
39. 119) NV: "Thưa
thượng hoàng, Quan Thái úy đã biết sự việc rất rõ ràng từ
đầu tới cuối rồi ạ !"
40. 120) "Mối
họa thật không phải nhỏ" , đúng thế! Nguyễn Nộn
ở Bắc Giang đang tăng cường binh lực, Đoàn Thượng và Đoàn
văn Lôi đang là bá chủ vùng Hồng. Nếu toàn dân theo hai ông
này thì họ Trần dù làm vua cũng không yên.
41. 121) Đe
doạ và khủng bố thì đúng hơn.
42. 122)Thuyền
rồng và pháp giá chỉ dùng cho nhà vua. Muốn gặp một ông quan
dù cao cấp mấy đi nữa thì vua chỉ sai người vời vào. Lấy thuyền
rồng đi đón thì đúng là bố vua! Bố vua là thượng hoàng. Sao
lại lộ liễu thế này! Đạo diễn Thủ Độ hơi bị sơ xuất trong vở
kịch.
43. 123)Theo
ý người viết thì nên sửa là “Thái Tổ (Trần Thừa) “giả bộ” chưa
tin điều ấy”. Tuy nhiên cũng có thể kẻ chủ mưu "chưa
tin" vì không ngờ là sự việc lại xảy ra thuận lợi quá
thế này !
44.124) NV:
“Ý trời”? Quan Phụ quốc Thái uý đã chuẩn bị theo “ý trời” từ
lúc đưa con mình là Trần Cảnh vào nội cung!
45.125) Có lẽ
người viết bài chiếu này không đọc sử Việt nên không biết là
Hai Bà Trưng đã từng làm vua.
46.126) Lý Chiêu
Hoàng mới có 8 tuổi mà lại phải “suy đi tính lại một
mình…nghĩ chín từ lâu” ! Thái hậu, Thái úy và Điện tiền
chỉ huy sứ đã “suy đi tính lại” dùm cho nhà vua và cả họ
Lý rồi! Không biết ai làm bài chiếu này, lố bịch quá sức !
47. 127) Vương
hậu Thuận Trinh là Trần Thái hậu, cô ruột của Thái Tông Trần
Cảnh, bà này tạm thời vẫn được làm Thái hậu.
48. 128) Ghi
chú của dịch giả : “Nhiều bộ sử khác chép là "Chiêu
Hoàng". Bản chữ Hán sách này không thấy chép: Thái Thượng
Hoàng, Hoàng Đế, Hoàng Hậu, Hoàng Tử v.v... Cả đến chữ "vua
chết" không viết "đế băng" mà viết "vương
hoăng". Có phải khi ở trong "Tứ khổ toàn thư",
bộ sử này đã bị người Trung Hoa với cái thủ đoạn chính trị
lúc bấy giờ mà sửa khác đi chăng?” .
49. 129) Miếu
hiệu là Thái Tông, vì đã lên ngôi vua nên danh xưng được các
sử gia gọi là Trần Thái Tông
50. 130) Người
viết chưa thấy sử liệu nào nói về số phận bà Thái hậu họ Đàm.
Có lẽ khó mà yên với Trần thái hậu, người đã bị Đàm thái hậu
ép tự tử rồi sau đó còn định lén đánh thuốc độc cho chết, may
mà thoát vì được vua Huệ Tông giúp.
51. 131) Đoạn
sau của ĐVSKTT viết : "Trước đó, Thượng hoàng nhà
Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem,
có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh
biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là
để phụng sự, mhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt" .
Vậy có thể trư ớc khi vua Huệ Tông tới chùa Chân Giáo đã ra
ở chùa Phù Liệt.
52. 132) Tháng
8, năm 1226 (8 tháng sau khi nhà Trần lên làm vua), Trần Thủ
Độ ép vua Huệ Tông tự tử chết và sau đó "Giáng hoàng
hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ" (ĐVSKTT). Đây
là vụ đồng tộc kết hôn (loạn luân) thứ hai của họ Trần khi
nhà Trần mới vừa lên ngôi. Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng là con
của cô ruột (em Trần Thừa), nay Thủ Độ lại chính thức lấy bà
chị họ, con chú bác. Thủ Độ chủ trương đồng tộc kết hôn để
thế lực không lọt vào tay ngoại thích như họ Trần đã làm với
nhà Lý. Sau này họ Trần sẽ còn xảy ra rất nhiều vụ đồng tộc
kết hôn.
53.133) "Hoàng
thái tử [Sảm] đến thôn Lưu Gia704 ở
Hai Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy
làm vợ" (ĐVSKTT)
54. 134) Hồ
Nguyên Trừng là con cả của Hồ Quí Ly, tác giả của "Nam
Ông Mộng Lục" (viết năm 1442, hồi ký nói về nước Việt)
, ông cũng là nhà kỹ thuật giỏi, đã chế ra súng "thần
cơ". Được nhà Minh trọng dụng, ông đã được thăng tới chức
Tả thị lang bộ Công
55. 135) Hồ
Quí Ly lúc này đang là Thái thượng hoàng
|