Quan thư thư cưu
Tại hà chi châu
Yểu điệu thục nữ
Quân tử hảo cầu
Chim thư cưu hót họa
Tại cồn bên sông
Người thục nữ u nhàn
Đẹp đôi cùng quân tử [2]
Kinh Thi mở đầu như thế. Thục nữ u nhàn cho động lòng quân tử.
Quân tử ở đây là vua Văn Vương, vua ắt là quân tử vì người trị
nước phải có tấm lòng hải hà, thần dân nhờ vậy ấm cúng trong sự
rộng lượng. Ngày nay lắm người ngồi trên mà bản chất vốn là kẻ
hẹp hòi tham đắm. Nước ông Khổng mấy ngàn năm trước đề cao quan
niệm quân tử và thục nữ. Câu mở đầu Kinh Thi không là sơn hà xã
tắc, kinh bang tế thế xa vời mà chỉ nói đến cái tư cách của con
người. Trên dưới biết ứng xử nên thiên hạ an hòa. Ứng xử như đôi
chim thư cưu, loài chim nước khắn vó mà vẫn giữ gìn phong cách
riêng biệt. Tri kỷ biểu hiện qua một ánh mắt. Âu yếm đôi mắt thư
cưu.
Và
như thế, tôi cùng Phượng lấy Tour Trung Quốc Mùa Thu “Mây nước
tiêu tương” của Voyages Saigon lên đường đi thăm đất nước của
ông Khổng. Chuyến đi dẫn chúng tôi qua tám thành phố từ Bắc xuyên
Tây rồi xuôi Nam, Thượng hải, Bắc kinh, Hàng châu, Nam kinh,
Trường an, Quế Lâm, Quảng châu và Hương Cảng. Trung quốc bừng
lên trong sức sống cuồn cuộn của hàng hàng lớp lớp người. Chưa
nơi nào đông dân như thế ! Không nghi ngờ gì nữa, tiềm lực đó
sẽ biến Trung quốc thành một đại cường trong thế kỷ này. Hôm
đến Trường thành ở Bắc Kinh tình cờ gặp cuộc tập dượt cho Thế
vận hội 2008, người đứng trùng trùng dọc theo Trường thành, cờ
xí xanh đỏ ngập trời, từng hồi từng hồi, tiếng reo hò theo lệnh
vang dội đến mấy dặm đường, khí thế thật dũng mãnh vô cùng, bất
giác nhớ đến cha ông Lý, Trần, Nguyễn từng đánh đuổi mấy chục
vạn quân thù reo hò xâm lược quê hương ngày trước mà kính phục
cái đởm lược của tổ tiên.
Chuyến đi đã mang đoàn du lịch tiếp cận
rất nhiều khía cạnh về văn hóa, lịch sử và lối sống cũng như khuôn
mặt da dạng của người Trung Quốc. Cám ơn kiến thức thật dồi dào
về Trung quốc và thế giới của Trưởng đoàn du lịch Trần Chính, anh
đã làm chuyến đi thêm phần hào hứng với những giai thoại rất duyên
dáng về văn chương và lịch sử Trung Hoa. Bài
viết này không nhắm đến việc tường thuật chuyến đi mà chỉ ghi lại
một vài ý nghĩ thoáng qua đầu về những nơi đã đi qua, không theo
một thứ tự nào, những cảm hứng đôi khi xuất phát từ những điều
vụn vặt không đâu nhưng có hề chi, đôi khi lời nói không đâu /
về khơi lại mộng ban đầu vu vơ / chim kia hót giọng bâng quơ /
cũng vì bóng nắng lửng lơ gọi mời. Mặt khác, những nơi không nhắc
đến trong bài không nhất thiết là kém phần thú vị, tất nhiên tùy
theo cảm quan của người đối diện, cảm xúc về nơi chốn cũng có khác
nhau ít nhiều.
Điểm ghi nhận đầu tiên, Ô Trấn, thị trấn nhỏ nằm
ven kinh Đại Vận Hà thấp thoáng hình ảnh phố cổ Hội An, thuyền
trôi Bến Ngự. Hồn quê trở về trong từng làn khói mỏng bay lên từ
mái thấp âm dương đổ xuống tường loang rêu cũ. Ô hay, lòng mắt
cay cay, nhớ nhà
châm điếu thuốc [3], khói có buồn bay lên cao ? Quế Lâm
non nước kỳ vĩ, “Quế Lâm sơn thủy giáp thiên hạ”, tiếc thay
kỹ nghệ du lịch làm giảm đi nhiều vẻ thơ mộng của thiên nhiên.
Từng đoàn tàu chở du khách nối đuôi không dứt trên Li Giang giết
chết hình ảnh một bức tranh thủy mạc nằm trong đầu tôi trước
khi đến Quế Lâm. Đâu là lão ngư tộc Đan suốt đời trên sóng nước,
cất giọng khàn, hát với con chim cồng cộc bắt cá đêm đêm ? Mênh
mông sương khói, vỗ mạn mà ca, sánh gì đời thượng nguơn Nghiêu
Thuấn ? Tôi gặp trên bến một ông lão với cây đòn gánh trên vai
và con chim cồng cộc, ông đứng đợi khách du lịch xin chụp hình
chung để lấy tiền. Tôi nao lòng, không gì buồn hơn hình ảnh đó.
Có lẽ mình hoài cổ quá chăng ! Quế Lâm về đêm rực ánh đèn néon
màu xanh lòe loẹt trên hàng liễu dọc ven hồ, trông xa như một
bức tranh rẻ tiền trưng bày ở Chợ Lớn ngày nào. Bước đi trong
phố đêm, khí trời hâm hấp quen thuộc, tôi chợt nhớ mình đang
đứng trở lại cùng một kinh tuyến, một múi giờ đã xa cách trên
hơn ba mươi năm nay. Quê nhà dưới đó cách vài trăm dặm mà sao
vạn lý muôn trùng xa.
Bắc
Kinh, Thượng Hải, Trường An ngoài những di tích lịch sử đáng nhớ,
thành phố mở mang rộng lớn không khác gì những thành phố lớn ở
Hoa Kỳ. Đi dạo phố mua sắm ta có cảm tưởng như đang đi ở những
thương xá bên Mỹ. Thượng Hải ngột ngạt trên đà xây cất, phố cũ
bị kéo sập khắp nơi dành cho cao ốc mọc. Bắc kinh rầm rồ chuẩn
bị cho Thế Vận Hội 2008. Hơn 43 tỷ Mỹ kim mà người hướng dẫn viên
địa phương ở Bắc Kinh đã hãnh diện khoe với chúng tôi dùng để chỉnh
trang và xây cất thành phố, mặc cho Bắc Kinh một bộ áo hào nhoáng
mới trong khi nông dân ở Tây An (kinh đô cũ Trường An) vẫn còn
vật lộn với cuộc sống của thế kỷ trước. Ngôi miếu địa của Tần Thủy
Hoàng ở Trường An với hàng ngàn tượng binh mã được chôn dấu theo,
nguyên lâu đài của Minh Thái Tổ ở Nam Kinh nằm ẩn sâu dưới lòng
đất hơn 30 thước cũng như Tử Cấm Thành mênh mông ở Bắc Kinh, ngoài
cách thế to lớn vĩ đại làm cho cả thế giới trầm trồ còn nhắc nhở
ta đến sự xa xỉ đáng ghét của bọn vua chúa bạo quyền trên sự đau
khổ của bàng dân vô tội. Cách mạng 1789 của Pháp và 1910 ở Trung
Hoa của Tôn Văn là những điểm son trong lịch sử con người trong
việc đánh đổ chế độ phong kiến cường quyền.
Ở Tây An khi đến thăm
Hoa Thanh Cung của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi nhìn tranh
ảnh đời nhà Đường tôi ngạc nhiên khám phá thời trang phụ nữ thời
ấy thật tiến bộ. Dương Quý Phi và các phu nhân đều mang y phục
mỏng manh khêu gợi, ngực trắng gò bồng nhấp nhô mời gọi. Không
trách Đường Minh Hoàng bị mê hoặc, bỏ phế việc triều đình cho đến
loạn lạc suýt phải mất ngôi. Và cuối cùng cũng chẳng giữ được Quý
Phi. Cho hay chẳng có gì trên đời là thường còn vĩnh viễn, xa hoa
hỷ lạc rồi cũng qua đi như phù du. Kinh Thi nói đến trang sức xa
hoa chẳng giữ được lâu dài như số phận con thiêu thân,
Phù du chi vũ
Y thường sở sở
Cánh phù du sớm sinh tối mất
Như áo quần màu sắc sáng tươi [4]
Trước khi rời Trường An chúng
tôi ghé Tháp Đại Nhạn, tàng kinh các nơi giữ kinh Phật do Đường
Tam Tạng thỉnh về từ Ấn Độ. Cúi đầu bái ba lần kính phục đại
nguyện của vị Đại Tăng đời Đường đã không sờn lòng trong chuyến
hành trình thỉnh kinh gian nan khổ sở suốt 16 năm. Bên cạnh
sự tinh tấn kiên trì, Huyền Trang còn là một học giả uyên bác
trác tuyệt, ngài đã phiên dịch sang Hán văn hơn 600 bộ kinh
Phật từ Ấn Độ. Không có ngài, Phật giáo Đại Thừa không có cơ
phát triển cực thịnh ở Trung Hoa như chúng ta đã thấy.
Dạ
yến ở khu Bắc Hải, Bắc Kinh là một đêm đáng ghi nhớ. Ngoài món
ăn đặc sản bất hủ vịt Bắc Kinh, sơn hào hải vị dành cho vua chúa
và tiếp viên ăn mặc lối cung tần nhà Mãn Thanh, còn có phần trình
diễn âm nhạc điêu luyện của ba tiểu thư, Tống, Bành, Trịnh từ
Nhạc Viện Bắc Kinh thật thú vị do anh Trần Chính mời đặc biệt
cho buổi dạ yến. Ba cô trình bày tám tấu khúc tiêu biểu âm nhạc
dân gian Trung Hoa của các miền Hoa Bắc, Giang Nam và Quảng Đông.
Tống tiểu thư thả hết hồn mình vào nhị hồ, kéo hết tâm can cho
Quỳnh Như trở về bên chén rượu Phạm Thái. Trịnh tiểu thư nét
ngài thanh tú, âm nhặt, âm khoang xuất sắc trong khúc độc tấu
tỳ bà "Thập diện mai phục" từ Hán Sở tranh hùng,
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng [5]
Thoắt đâu Hạng Võ hung hãn vượt trùng vây, binh ngựa kinh qua,
Trịnh tiểu thư vung tay gấp rút,
Ngân bình sạ phá thủy tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao [5]
Đoạn chót âm nghe lạc
giọng thất thanh, khi như binh khí rớt, khi vi vu như ma kêu
quỷ hờn than khóc và cuối cùng im lặng, khúc dứt. Không biết
họ Hạng có thoát nguy được chăng nhưng đó là chuyện của lịch
sử. Bành cô nương với ngón đàn tranh tuyệt diệu trong khúc Cao
Sơn Lưu Thủy về tri kỷ Bá Nha – Tử Kỳ. Chí tại non cao nghe sao
vòi vọi. Hồn mênh mông như thể nước trôi. Khúc Bình Hồ Thu Nguyệt
ba cô hòa tấu mang người nghe về thảo am của Giác Duyên, một
gian nước biếc mây vàng chia đôi. [6]
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh [6]
Không biết có phải là nhân duyên tình cờ, vài bữa sau chúng tôi
thả thuyền trên Bình Hồ Thu Nguyệt ở Tây Hồ, Hàng Châu. Tấu khúc
này êm ả ngân về trong đầu suốt buổi dạo thuyền.
Trung quốc bao
la, sơn thanh thủy tú, đi qua nhiều nơi nhưng chỉ có Hàng Châu
là để lại nhiều dấu ấn trong tôi. Bước đến Hàng Châu nhớ câu hát
dễ thương của Phạm Mạnh Cương, “Trong mắt em mùa
thu về đây...” Có thật đôi mắt em là mùa thu hay mùa thu
đang rung từng hệ mạch trong giây phút thể nhập của thi nhân
và thu qua đôi mắt ? Tây Hồ là đôi mắt của Hàng Châu. Đôi mắt
ấy mang cả một trời thu, liễu giăng từng lớp kết. Liễu đan dày
rèm mi hồ lặng. Liễu làm tóc chảy dài trên dung nhan thu Hàng
Châu. Tô Đông Pha khi bị biếm đi Hàng Châu không ngờ tìm thấy
ở đất này một quê hương thứ hai.
Ký
thủ Tây Hồ tây bạn,
Chính mộ sơn hảo xứ,
Không thúy yên phi
Tây Hồ nhớ kỹ bờ tây,
Chính nơi đây núi chiều rất đẹp,
Trời trong xanh vướng vít khói sương [7]
Dạo bên Tây Hồ, anh Trần Chính nhắc đến một câu thơ của Tô Đông
Pha ví Tây Hồ đẹp như nàng Tây Thi, "Tây hồ đâu khác nàng
Tây tử."Tây Thi là tiên nữ giáng trần xuống Hàng Châu
và theo truyền thuyết Tây Hồ là mảnh gương soi mặt của tiên nữ
thiên cung làm vỡ rơi xuống hạ giới. Tưởng là bị đi đày ngờ đâu
ông Tô gặp Hàng Châu như tài tử gặp được giai nhân. Ông vẫn thường
dạo thuyền uống rượu trên hồ, ca tụng Tây Hồ,
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kì
Dục bả Tây hồ tỉ Tây tử
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi
Trời tạnh long lanh hồ đã đẹp
Mưa phùn mịt mịt núi càng xinh
Tây hồ đâu khác nàng Tây tử
Trang điểm cùng không nét vẫn tình. [8]
Chúng tôi dạo thuyền trên Bình Hồ Thu Nguyệt, cảnh trí thù dị,
thơ mộng, đúng là đất của văn thi nhân, không trách Tô Đông Pha
làm thơ hay. Người Trung Quốc vẫn thường tự hào về Hàng Châu bằng
câu nói "Trên trời có thiên đường, dưới đất có Tô, Hàng".
Dạt dào sóng nước, Hữu tình phong vạn lý quyển triều lai /
Vô tình tống triều quy. Gió hữu tình vạn dặm cuốn triều về
/ Vô tình đẩy triều lui [7]. Tâm cảnh đối chiếu bằng một chữ tình,
thi sĩ là nòi tình cho nên dù cảnh vật vận theo duyên khởi, thủy
triều kia há không vì một chữ tình mà lên xuống hay sao. Thúy Kiều
một kiếp gian nan cũng vì "Lại mang lấy một chữ tình" [5]. Sông
Tiền Đường nơi nàng gieo mình những toan đóng sổ đoạn trường cũng
nằm sát bên Tây Hồ. Vấn Tiền Đường giang thượng / Tây Hưng
phố khẩu / Kỷ độ tà huy ? Hỏi bến Tây Hưng / Bên sông
Tiền Đường / Đã bao lần nắng nghiêng chiều xuống ? [7] Thơ
Tô Đông Pha gắn bó với Hàng Châu là như thế. Quanh Tây Hồ, con
đê mang tên Tô Đông Pha, Tô Đê, núp bóng theo hàng liễu chạy dài
làm con đường hò hẹn của Hàng Châu. Đê được nối bằng sáu cầu vòng
đá cổ, trong khoảng cách như trăng lặn xuống cầu thành nguyệt kiều
nâng bước tình nhân. Xa xa tháp Lôi Phong mờ trong màn sương bạc.
Tương truyền Lôi Phong Tháp là nơi sư Giác Hải đã nhốt Bạch Xà
Nương, không cho nàng chung sống với Hứa Tiên, bắt nguồn từ câu
chuyện nổi tiếng Thanh Xà-Bạch Xà. Hóa ra Đông hay Tây, đàn ông
đều là nạn nhân của rắn hiện thân làm đàn bà xúi ăn trái cấm. Trái
cấm hẳn là ngon, nếu không đàn ông sao dại mãi suốt đời !
Đến Hàng
Châu không thể không ghé làng trà để xem cách ướp và làm trà. Buổi
sáng đồi trà sương phủ, không khí lành lạnh làm ta thèm một chén
trà xanh Long Tỉnh lóng lánh xanh ngọc. Ghé đến làng, chiêu vài
ngụm, hương thơm lùa vào khứu giác, nhớ bài Thất Oản Trà của Lô
Đồng,
Nhất oản hầu vẫn nhuận / Chén thứ nhất làm trơn
cổ họng
Nhị oản phá cô muộn / Chén thứ hai tan nỗi buồn phiền
Tam oản sưu khô trường / Chén thứ ba thấm vào ruột đang
khô héo
Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển / Chỉ còn lại năm nghìn
cuốn sách
Tứ oản phát khinh hãn / Chén thứ tư mồ hôi rướm
ra
Bình sinh bất bình sự / Những chuyện thế sự bất
bình
Tận hướng mao khổng tán... / Theo lỗ chân lông
mà bay đi...
Giọng hát Tony Bennett đã làm lời nhạc I
left my heart in San Francisco trở thành bài hát bất hủ về một nơi đến.
Hàng Châu đối với tôi tuy mới sơ giao mà xem chừng như tình đã
nặng lắm. Hẹn với Hàng Châu, sẽ có một ngày trở lại...
Vũ Hoàng Thư
Trung Quốc, Mùa Thu 2006
[1] Chủ đề của Voyages Saigon cho chuyến du lịch Trung Quốc Mùa
Thu 2006
[2] Kinh Thi, Chu Nam, Quan Thư
[3] Thơ Hồ Dzếnh, Chiều
[4] Kinh Thi, Tào Phong, Phù Du
[5] Bạch Cư Dị, Tỳ Bà Hành, Phan Huy Vịnh dịch
[6] Nguyễn Du, Đoạn Trường Tân Thanh
[7] Tô Đông Pha, Bát thanh Cam Châu, Phan Lang dịch
[8] Tô Đông Pha, Ẩm hồ thượng sơ tình phục vũ, Nguyễn
Hiến Lê dịch
|