SỐ 22 - THÁNG 4 NĂM 2004

 

Thư tòa soạn

Thơ
Thuở nào
Trần Việt Bắc
Ra đi
Hà Phú Đức
Tháng 3 Paris
Tôn Thất Phú Sĩ
Thơ chữ Hán
Huỳnh Kim Khanh
Muộn màng
Hoàng Mai Phi
Những lá thư ngày cũ
Tóc Tím
Nhớ đêm 29
Đường Sơn
30-4
Ngọc Trân
Xin khất
Song Châu Diễm Ngọc Nhân
Freeway 101
Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Người lính thủy năm nao
Trần Việt Bắc
Hồi ký 30-4
Nguyễn Hồng Quang
Nhiều khi muốn quay về
Phan Thái Yên
Bữa ăn tối
Nguyên Nhi
Nàng Xuân trên đảo Phú Quốc
Phạm Hồng Ân
Chân mang giầy số 6
Song Thao
Đứa con nuôi
Phong Nhĩ Dị Nhân
Ngoại ô đỏ lửa
Cỏ Biển
Hồi ký bạn tù
Hoàng Quốc Việt
Lá thư không gửi - kỳ 8
Trương Thanh Diễm Thùy-Bảo Lộc
Hoa mai
Xuân Phương & HMP
Tháng 4 dục lòng quật khởi
Phạm Văn Thanh
Giang Nam du ký
Trần Ngọc Giang
Một thoáng ngoài kia
Ảnh: Ngô Văn Sơn
Thơ: Vũ Hoàng Thư

Tiểu luận, Biên khảo
Lời với gió chiều
Vũ Hoàng Thư
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - kỳ 9
Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - kỳ 16
Huỳnh Kim Khanh


 

Người lính thủy năm nao

 

Hắn:
Nơi chôn nhau cắt rốn: huyện Gia Viễn, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình,
triền đất xổi, dòng sông Đáy, bờ sông Bôi.
Lúc chào đời: Năm Canh Dần (1950),
thân trôi nổi ngày cá rẽ lên đồng (28 tháng 4 âm lịch),
Năm tuổi đời, thằng con trưởng theo mẹ cha cùng ông bà nội,
vượt tuyến vào Phát Diệm vùng Tề (vùng Quốc Gia)
Ông bà với bản án địa chủ, tử hình,
sau những màn đấu tố tồi bại đãi bôi.
Ông đâm ra mù, bà thành ra dại.
Bố, chàng thư sinh chưa từng trải.
Vì muốn sống, liều chết trốn thoát cùng gia đình.
Cha mù, mẹ ương, vợ quê, con dại.
Bốt Hoàng Đoan đạn be thuyền vương vãi.
Vùng Phát Diệm lây lất tạm cư.
Hải Phòng, cửa biển bùn lầy bãi,
tàu Há Mồm qua Bến Hải vào Nam
Ngô Chí Bình, Đức Hòa, Tây Ninh dựng trại.
Đợi ngày thái lai !?
...
Nhờ cụ Diệm nên chúng tôi tồn tại !?
"Ngô Tổng Thống muôn năm...
Đám nhóc tì mẫu giáo hăng say hét hò thoải mái.
Tôi gào theo chả hiểu quái gì.
Ê a được vài chữ trước khi về Ông Tạ
...
Xứ đạo đông dân, giúp lễ, nghịch ngợm, bè bạn la cà
Lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì, lớp nhất
Rồi thi trượt đệ thất trường công
Đành về lại chốn cũ, khi cấp trung học phổ thông vừa mới mở.
Thêm bốn năm trước khi rời trường
Ôi! những thân thương nay còn nhớ mãi
“An Lạc trường em xinh xinh
Nơi đây tình thắm thiết gia đình...”
Âm nao vọng về giống như huyền thoại.
Sau đó Lê Bảo Tịnh, nhà Thờ Ba Chuông rồi Đắc Lộ.
Tôi thành cậu tú vào đại học ngồi chơi.
Máu lười, tính ham vui bùng lên, không ai can nổi.
Thời cuộc bào chữa, học cho lắm vào cũng thế thôi!

Tết Mậu Thân khói lửa nổi lôi đình
Tương lai mờ mịt theo vận nước điêu linh
Năm 69, quẳng sách đăng trình làm thằng lính.
Tình nguyện gia nhập Hải Quân
Bắt đầu làm quen những thao diễn linh tinh
từ những "ngài" đàn anh mặt mày búng ra sữa

Gió bụi Quang Trung, cơ bản nhà binh
Cơm nhà bàn, nắng quân trường phỏng lửa
Số phần gọi, về Bạch Đằng, bập bẹ tập tành
vài câu Anh ngữ ranh, rồi đi Mỹ thụ huấn hải hành,
vì quân trường Nha Trang không đủ chỗ.

Đầu 71, đến Vĩnh Long trình diện,
Giang Đoàn 56 Tuần Thám
Rách nát sau những trận đánh Tân Châu, Hồng Ngự sát biên.
Phôi thai đơn vị đầu đời, thằng chuẩn úy nhãi,
Làm phó toán dăm chiếc PBR nhập vùng chờ ứng biến
Ngày ngủ đêm kích,
Tối mật khu sáng quốc gia
Mỏ Cầy , Chợ Láng, Kiến Hòa
Đơn vị chuyển về Mỹ Tho
Lại kinh Xáng, Ba Bèo, Chợ Lách
AK, B40, B41, rồi thượng liên, chê tàu giấy(PBR) bắn càn.
Nên lắm lần số may thoát nạn
Để có dịp cười khàn, cho những cuộc tình tản mạn theo rạch ra sông.

Giữa 73, về Hải Đội Năm Duyên Phòng
Kiếp lang thang, vùng Năm Căn đày ải.
Chẳng than van, đã không ngại mà còn khoái.
Vì lỡ chơi, "xổ bựa" nên cóc cần
Xa mặt trời, đón thủy triều lên xuống bao lần
theo trăng khuyết tròn khóc cười man dại .
Thuyền trưởng chiếc tàu nhôm (PCF 3915)
lờ lững dòng sông đục, lất lây biển sóng cồn
Cùng những thằng bạn sớm hôm nhớ mãi
Vũng lầy Bảy Hạp, sông Cửa Lớn
Rạch Cái Chồn, "Chùa Bà Đanh" (cửa Bồ Đề, tiếng lóng của vùng hành quân),
Hòn Khoai, Ông Đốc, Gành Hào "
Tháng ngày loang máu tan vào sông sâu .

Đầu 75, dồn dập những biến cố thương đau
Đến Vũng Tầu chờ đơn vị mới
PGM608, chờ đỏ mắt có thấy đâu!
Chiến hạm ngoài vùng, sóng gió dãi dầu, công tác triền miên,
Tàu đã không bao giờ cặp bến, cửa Cần Giờ, vết dầu loang mặt biển.

Lệnh lạc nên vẫn chờ, vật vờ thằng lính không đơn vị.
Pháo kích liên miên, dài người nằm mong công điện.

28 tháng tư, Cát Lở như nổi cơn điên
122 rồi 130 ly, căn cứ oan khiên rực lửa
Tôi chồm lên con "lật đật" Coast Guard, đi ké ra cửa biển nằm chờ
Lầm lũi những chiến đĩnh vật vờ, thả trôi trong đêm tối .
Đêm 29, pháo vãi theo kẻ nằm đợi.
Tàu giạt khỏi tầm pháo kích ra khơi.
Sáng 30 nghe lệnh buông súng, tâm trí rối bời, buốt tim nhức óc
Cố không khóc nhưng giọt nước mắt vẫn rơi.
Đất nước! Than ôi! Cha ơi! Mẹ ơi! Các em của anh hỡi!

Lệnh trên máy vô tuyến, giọng ai kia như nức nở bồi hồi:
"Các chiến đĩnh ra khơi, và thủy thủ đoàn chuyển sang chiến hạm"
Cả tàu náo loạn, mặt mày ngơ ngác, não nề.
Lên chiếc WHEC 5, nằm vật trên sàn ủ ê, rồi cười khan khi thấy lạ vì vị mặn nước mắt .

Đi đâu?
Nào có biết, nhưng phải đi, bố tôi dạy thế.
Kinh nghiệm máu, ông cha truyền lại với lời thề
"Không đội trời chung với loài quỷ đỏ".

Đoàn tàu vào Subic Bay, lúc hạ kỳ, răng cắn môi bật máu
Đau xót nào bằng khi phải bỏ quê hương
Và chợt hiểu nỗi niềm người mất nước.

Đoàn người lũ lượt sang chiếc thương thuyền:
Truman Kimtro, tới đảo Guam.
Tôi thực sự bắt đầu đời tỵ nạn.

Sau một tháng lều chõng tạm cư
Chiếc DC10 mang tôi sang đất Mỹ
Fort Indian Town Gap, Pensylvania
Ngày ba bữa, ngồi thưởng thức đồng minh hầu hạ.
Tính thù vặt, nên nghĩ vậy cho hả.

Không gì làm, bèn đổ đốn lang thang
Lê la các trại tìm bạn cũ hỏi han
Tán gái giùm thằng bạn hải quân nối khố
Ông bà Hải, cùng barrack thấy tôi chưa vô lại
Khuyên đi học kẻo uổng thân trai,
nghe cũng lọt tai cũng vì họ có hai cô con gái.
Nhưng khổ thay, mấy thằng bạn đang tranh giành,
Nên phải tránh, đành để tâm vào chuyện học.

Cuối 75, Iowa, thằng lính cũ cắp sách lại
Sau bốn năm khi ra trường, mới biết cái học của mình sai.
Gia đình vượt biên qua, là anh cả nên phải làm gì, tôi chia phần trách nhiệm.
Đùa với mạch điện, trò vui lại biến thành nghề.
Đành tử thủ cái nghiệp bất ngờ, khác xa hoài bão.

Năm 82, về California, gặp cố nhân cùng xứ đạo.
Duyên tơ tóc, 85 hai đứa thành vợ chồng.
Yêu cho lắm vào! thành quả là ba "đấng" nhãi.

Ngày rộng tháng dài,
thú tiêu khiển thành trò kiếm tiền làm mất hứng.
"Lá rụng về cội"
Để tìm vui, tôi tập tành đối đáp, vung vít xướng họa thi ca,
nghiền ngẫm sử nhà, văn hóa người Việt để làm quà cho lớp trẻ .
Thơ thẩn viết lung tung được trên trăm bài.
Năm bài họa thơ Đường được anh Trần Quốc Sỹ đoái hoài
Chắc thấy buồn cười, nên đem gom chung vào trong cùng bài viết:
"Những cuộc xướng họa thơ Đường kỳ thú" (Tác giả: Trần Quốc Sỹ)
Chả hiểu sao lại nằm trong quyển 1
"Tuyển Tập Văn Học Ngày Nay"(2004).
Rồi anh Nhược Thu muốn tôi cho tiểu sử.
Vâng, cũng hay, nhưng chả biết viết gì !!!
May thay nhớ được bài bản của tiền bối Hà Huyền Chi.
Tôi bèn tập tành bắt chước ông cho ra vẻ
Và đây, xin gởi anh mấy câu bập bẹ của gã bất tướng vô tài.

Tạ ơn Thượng Đế đã an bài
Tạ ơn Ngài cho hình hài thân xác
Tạ ơn tổ quốc, tạ ơn dải đất máu xương bồi
đã cho tôi lớn làm người Việt Nam
Tạ ơn mẹ cha cưu mang, bao năm dưỡng dục thằng con dại
Tạ ơn đất nước này nơi chứa chấp tôi, người lữ hành xa xứ hôm nay.
Cám ơn em, người vợ yêu với niềm mong ước trọn đời tay trong tay
Cám ơn các bạn hữu đã chia sẻ vơi đầy
Xin tạ ơn người, và cám ơn đời.

Trần Việt Bắc (tvb)
Tháng 3, 2004